Công khai, minh bạch, gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ
Thảo luận tại tổ về dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, các ĐBQH đề nghị, bổ sung yêu cầu xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu nhân sự ngành giáo dục ở cấp tỉnh; có tiêu chí cụ thể xác định “địa phương có điều kiện” dựa trên năng lực cân đối ngân sách, khả năng xã hội hóa và mức thu nhập bình quân đầu người, để việc triển khai miễn phí sách giáo khoa bảo đảm minh bạch, tránh tùy tiện.

ĐBQH Lê Thu Hà (Lào Cai):
Minh bạch hóa quá trình tuyển dụng, điều động

Tôi cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Liên quan đến phát triển nguồn nhân lực của ngành giáo dục tại Điều 2 - “trái tim của Nghị quyết”, tôi cho rằng, phân cấp tuyển dụng, điều động nhà giáo tránh phân mảnh nhưng phải có giám sát. Dự thảo Nghị quyết đã giao cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện thẩm quyền tuyển dụng, tiếp nhận và điều động, thuyên chuyển, biệt phái nhà giáo, cán bộ quản lý, nhân viên đối với các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh; đồng thời giao Chủ tịch UBND cấp xã một phần thẩm quyền trong phạm vi cơ sở giáo dục thuộc quyền quản lý.
Theo tôi, có hai điểm sau cần được làm rõ hơn. Một là, phải xác định thật chặt phạm vi điều động liên quan từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên. Báo cáo thẩm tra đã chỉ ra, cách viết hiện nay có thể hiểu mở rộng sang hai tỉnh khác nhau, trong khi giám đốc sở của một tỉnh không thể có thẩm quyền đối với nhân sự của tỉnh khác. Do đó, tôi đề nghị chỉnh lý rõ thành: liên quan từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên trong cùng một tỉnh; nếu điều động liên tỉnh thì phải thực hiện theo quy định và thẩm quyền của cấp có thẩm quyền cao hơn.
Hai là, cần bổ sung cơ chế giám sát, minh bạch hóa quá trình tuyển dụng, điều động. Khi tập trung thẩm quyền về Sở thì chúng ta có thể giải bài toán phân mảnh nhưng lại đặt ra thách thức mới, đó là nguy cơ xin cho, ưu ái, cục bộ, thậm chí tiêu cực trong tuyển dụng, bố trí giáo viên. Hiện, dự thảo Nghị quyết mới nêu thẩm quyền nhưng chưa có quy định về trách nhiệm giải trình, báo cáo định kỳ, công khai thông tin. Do đó, tôi đề nghị bổ sung yêu cầu xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu nhân sự ngành giáo dục ở cấp tỉnh, công khai chỉ tiêu danh sách trúng tuyển, tiêu chí điều động.
Cùng với đó, thiết kế cơ chế kiểm tra, thanh tra độc lập đối với việc tuyển dụng, điều động, biệt phái giáo viên, nhất là ở địa bàn nhạy cảm về nhân sự.
Về chính sách đãi ngộ nhà giáo, tôi rất hoan nghênh quy định về phụ cấp ưu đãi nghề tối thiểu 70% cho giáo viên mầm non, phổ thông; 30% cho nhân viên và 100% cho giáo viên vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đây là thể chế hóa trực tiếp Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Tuy nhiên, như cơ quan thẩm tra cũng nhấn mạnh, đây là một chính sách có tác động về ngân sách rất lớn. Do đó, tôi đề nghị Chính phủ cần trình kèm theo Nghị quyết phương án tài chính trung hạn 2026 - 2030 cho nhóm chính sách này, tránh tình trạng quy định rất hay nhưng không bố trí được nguồn lực để thực hiện hoặc thực hiện cầm chừng.
Về lộ trình, cần ưu tiên thực hiện trước cho đội ngũ nhà giáo ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, nơi đang thiếu nghiêm trọng giáo viên và có nguy cơ chảy máu nhân lực.
Khi trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục nhà nước, giáo dục đại học trong việc quyết định thu nhập tăng thêm cho nhà giáo, chúng ta cũng phải đặt yêu cầu về công khai, minh bạch, gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ, tránh biến tự chủ thành khoảng tối lợi ích.
ĐBQH Ma Thị Thúy (Tuyên Quang):
Miễn phí sách giáo khoa thể hiện bản chất nhân văn

Tôi nhất trí cao với mục tiêu và tinh thần đổi mới của dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó, khoản 1 Điều 3 của dự thảo Nghị quyết quy định, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định một bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc, thực hiện từ năm học 2026 - 2027; thực hiện cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho học sinh hoàn thành vào năm 2030; đối với các địa phương có điều kiện thì sẽ thực hiện miễn phí sách giáo khoa từ năm học 2026 - 2027.
Một điểm rất mới của dự thảo Nghị quyết quy định được cử tri và Nhân dân quan tâm là chính sách miễn phí sách giáo khoa cho học sinh. Đây cũng là chính sách lớn, mang ý nghĩa sâu sắc về phúc lợi xã hội và công bằng trong giáo dục. Sách giáo khoa không chỉ là công cụ học tập, mà còn là biểu tượng của tri thức, là phương tiện đầu tiên để mọi trẻ em tiếp cận quyền học tập bình đẳng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Chủ trương miễn phí sách giáo khoa là một bước tiến thể hiện bản chất nhân văn, xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục nước ta.
Theo dự thảo Nghị quyết, những địa phương “có điều kiện” sẽ được thực hiện miễn phí sách giáo khoa sớm hơn bốn năm so với các địa phương còn lại. Trong khi đó, thực tế cho thấy, những tỉnh “có điều kiện” chủ yếu là các đô thị lớn, trung tâm kinh tế - nơi đời sống nhân dân đã tương đối cao; những địa phương khó khăn như miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số lại phải chờ đến năm 2030 mới được thụ hưởng chính sách này.
Áp dụng lộ trình như dự thảo Nghị quyết thì quyền tiếp cận giáo dục của học sinh giữa các vùng sẽ không còn bình đẳng về thời điểm, làm phai nhạt tinh thần công bằng xã hội trong giáo dục. Do vậy, tôi đề nghị giữ mục tiêu miễn phí sách giáo khoa toàn quốc vào năm 2030, nhưng cần ưu tiên thực hiện sớm ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nơi người dân thực sự cần sự hỗ trợ nhất. Như vậy, vừa thể hiện chính sách nhân văn, vừa đúng tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong giáo dục”.
Đồng thời, cần bổ sung tiêu chí cụ thể xác định “địa phương có điều kiện” dựa trên năng lực cân đối ngân sách, khả năng xã hội hóa và mức thu nhập bình quân đầu người, để việc triển khai minh bạch, tránh tùy tiện. Cho phép huy động nguồn lực xã hội hóa, quỹ học bổng, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội cùng tham gia cung cấp sách giáo khoa miễn phí, thay vì chỉ dựa vào ngân sách nhà nước. Thực hiện thí điểm mô hình “thư viện sách giáo khoa dùng chung” tại các trường phổ thông từ năm 2026, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi, để học sinh được mượn và sử dụng lại sách giáo khoa miễn phí trong thời gian chờ triển khai đồng bộ.
ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng):
Làm rõ nội hàm của việc quyết định một bộ sách giáo khoa
Khoản 1 Điều 3 dự thảo Nghị quyết quy định Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định một bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc thực hiện từ năm học 2026 - 2027.

Theo tôi, nội hàm của từ “quyết định” chưa rõ ràng. Hiện nay, chúng ta đã có một số bộ sách giáo khoa đang được sử dụng trong nhà trường và tất cả những bộ sách này đều đã được biên soạn và được Hội đồng thẩm định sách giáo khoa thẩm định để đưa vào sử dụng.
Vậy bây giờ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định một bộ sách có nghĩa là Bộ trưởng chọn một bộ sách trong số những bộ sách giáo khoa đang được sử dụng hay là chỉ đạo để biên soạn một bộ sách giáo khoa mới?
Sau khi Nghị quyết này được thông qua cũng chỉ còn một thời gian ngắn là đến năm học 2026 - 2027, nếu chọn một bộ sách giáo khoa đã có để sử dụng thống nhất trong toàn quốc thì sẽ chọn theo cơ chế nào trong khi tất cả các bộ sách đều đã được thẩm định rất kỹ càng và đều đạt tiêu chuẩn để giảng dạy trong nhà trường? Do đó, cần quy định rõ hơn về nội dung này trong dự thảo Nghị quyết.
Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để phát triển giáo dục thì phải là những cơ chế, chính sách chưa thực hiện và thể hiện rõ tính ưu việt, đột phá.
Tuy nhiên, dự thảo Nghị quyết đã đưa ra một số chính sách mới nhưng cũng có những chính sách đã và đang thực hiện. Đơn cử, tại khoản 1 Điều 4 có đề cập đến cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng số, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản phẩm, dịch vụ giáo dục theo hình thức đối tác công tư... Do đó, về bản chất, khoản 1 Điều 4 chủ yếu nhắc lại và hệ thống hóa chủ trương, nhiệm vụ đã có mà chưa tạo ra cơ chế đặc thù, vượt trội mới.
Nếu chúng ta nhắc lại hệ thống nhiệm vụ đã có nhưng đồng thời muốn tạo ra những cơ chế, chính sách vượt trội, đặc thù thì cần thiết phải kèm theo mức ưu tiên về nguồn lực, tỷ lệ chi hay cơ chế đầu tư khác biệt. Những điều này trong dự thảo Nghị quyết cũng chưa nêu rõ.