Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Bài cuối: Xây dựng thể chế, chính sách hiện đại, minh bạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả

Thanh Hà - Vi Hoa - Thanh Mai - Chi An. Trung Hiếu. Trình bày: Duy Thông 29/10/2025 06:10
cover_bai3.jpg

Nghị quyết 66-NQ/TW- Trái tim của các nghị quyết “trụ cột”, nền tảng kiến tạo hệ thống pháp luật hiện đại

Bài cuối

Xây dựng thể chế, chính sách hiện đại, minh bạch, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả


Sau khi thiết kế cơ chế và khơi thông điểm nghẽn thi hành, bước tiếp theo của đổi mới lập pháp là chuẩn hóa tư duy - xây dựng một quy trình làm luật hiện đại, dựa trên dữ liệu, minh bạch và có trách nhiệm giải trình. Cùng với đó là chương trình lập pháp linh hoạt, bám sát yêu cầu thực tiễn và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới, được cô đọng trong “các trụ cột chiến lược”. Việc triển khai Nghị quyết 66-NQ/TW không đứng riêng lẻ, mà kết nối đồng bộ các nghị quyết trụ cột – 57, 59, 66, 68, 70, 71 và 72 - như một “hệ điều hành” vận hành nhịp nhàng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đột phá trong kỷ nguyên số.


tl_bai3.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu với các đại biểu tham dự Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 7

“Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gay gắt, biến đổi khí hậu phức tạp, khoa học, công nghệ bứt phá, chúng ta không thể "đi sau, về muộn". Chúng ta phải "đi cùng thời đại", thậm chí "đi tắt đón đầu", "đi trước mở đường" ở những lĩnh vực đặc thù.”

Tổng Bí thư
TÔ LÂM


Mở đường kiến tạo phát triển


Chuyển đổi tư duy lập pháp là bước đi thực tiễn, quyết liệt với những chuyển động đồng bộ đáng ghi nhận của cả bộ máy Nhà nước. Tổng Bí thư Tô Lâm nhiều lần nhấn mạnh: hoàn thiện thể chế phải “mở đường cho kiến tạo phát triển”; không để lợi ích cục bộ, cảm tính chi phối chất lượng quyết sách. Những chỉ đạo này không chỉ là định hướng chính trị mà đã được cụ thể hoá bằng một loạt nghị quyết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ trong năm 2024 –2025, trong đó Nghị quyết 66 đặt nền móng cho đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, chuyển từ tư duy quản lý sang phục vụ; từ bị động sang chủ động và kiến tạo cho sự phát triển; phải hình dung trước sự đòi hỏi của phát triển để có quy định phù hợp.

Tuy nhiên, cơ chế thôi chưa đủ. Nếu tư duy lập pháp không chuyển biến- từ làm luật theo tư duy quản lý, theo cách truyền thống còn nặng về câu chữ, thói quen sang tư duy kiến tạo, làm luật “theo bằng chứng” thì nguy cơ nảy sinh nợ đọng văn bản, chồng chéo, khô cứng, nút thắt không khả thi và “luật trên giấy” sẽ vẫn tồn tại.

anh-bai-3(1).jpg
GS.TSKH Phan Xuân Sơn

Làm luật còn phải đánh giá tác động của luật vào đời sống thực tiễn như thế nào? Việc đánh giá tác động của pháp luật (Regulatory Impact Assessment – RIA) là công cụ quan trọng để chuyển từ tư duy lập pháp dựa trên kinh nghiệm, phán đoán cá nhân sang tiếp cận dựa trên bằng chứng, mô hình và dữ liệu định lượng. Trên thực tế cho thấy nhiều dự án luật thiếu dữ liệu định lượng, so sánh, thiếu phương án thay thế và khả năng thực hiện còn hạn chế- GS.TSKH Phan Xuân Sơn chia sẻ.

Xây dựng pháp luật dựa trên dữ liệu, nghiên cứu và các phân tích khoa học là làm luật theo bằng chứng (evidence-based policymaking) thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm, ý kiến chủ quan hoặc thói quen, tập quán. Đây là sự chuyển dịch từ việc tập trung vào hình thức (soạn thảo văn bản, sắp xếp câu chữ) sang tập trung vào nội dung và kết quả thực tế mà luật mang lại.

Giải pháp nào trong kỷ nguyên số hóa?


Những phân tích trên cho thấy rõ hơn đòi hỏi từ thực tiễn, những thách thức mới và cơ hội mới; yêu cầu xây dựng hệ thống pháp luật “thế hệ mới” cần những giải pháp đột phá, số hóa, chuẩn hóa, vừa hiện đại, vừa theo sát sự vận động của thực tiễn:

1

Trước hết là RIA được coi trọng, thực hiện nghiêm

RIA (Đánh giá tác động chính sách) không còn là công việc hình thức; trong kỷ nguyên số, RIA là công cụ cốt lõi để chuyển tư duy lập pháp sang mô hình “bằng chứng – dữ liệu – lựa chọn tối ưu”. Thực trạng nhiều dự luật thiếu dữ liệu định lượng về chi phí tuân thủ, thiếu so sánh phương án thay thế, khiến khả năng thực hiện yếu, tạo nút thắt, tuổi thọ luật ngắn, khi hội nhập và đổi mới bị cản trở. Do đó RIA là tiêu chuẩn “bắt buộc”, cần nâng RIA thành tiêu chuẩn “vàng” phải được coi trọng thực hiện đầy đủ và nghiêm túc trong quy trình lập pháp với các yêu cầu như: (datasets) công khai, mô hình định lượng chi phí tuân thủ, bảng so sánh phương án (trade-off) và phản biện độc lập…

Việc chuẩn hóa quy trình lập pháp biến RIA thành cơ sở ra quyết định chặt chẽ, toàn diện, sâu sắc hơn, thực tiễn và khả thi, giúp đại biểu Quốc hội, Ủy ban thẩm tra và công luận có căn cứ đánh giá chất lượng dự luật trước khi thông qua.

2

Thứ hai là đổi mới cơ chế lấy ý kiến, lấy ý kiến điện tử, phản biện mở

E-consultation (lấy ý kiến điện tử) phải là kênh chính thức, tích hợp vào CMS của Chính phủ và Quốc hội, có khả năng nhận góp ý, phân loại theo nhóm đối tượng như: chuyên gia, doanh nghiệp, người dân; tự động lưu trữ và xuất báo cáo tóm tắt (analytics), để tránh lấy ý kiến hình thức, “lấy ý kiến cho có, cho đủ quy trình”.

Song song e-consultation, cần huy động các nhà khoa học, chuyên gia luật, đại diện doanh nghiệp, đại diện người lao động... tham gia phản biện, đưa ra ý kiến độc lập trước khi hồ sơ RIA được trình Ủy ban thẩm tra. Như vậy, dự án khi trình sang Quốc hội đã được xem xét kỹ lưỡng, tập trung vào vấn đề lớn là phân tích chính sách đạt hay chưa đạt… Và đặc biệt là những quyết sách định hướng của Đảng và Nhà nước được thể hiện như thế nào.

3
Thứ ba là liên kết “các nghị quyết trụ cột”

Các quyết sách vĩ mô trong các nghị quyết “trụ cột” cần liên kết chặt chẽ trong sự thống nhất: mục tiêu – công cụ – chỉ tiêu – nguồn lực… Trong đó, Nghị quyết 66 được ví như “trái tim”. Cùng nhìn vào một nhóm nghị quyết được ví như “cấu trúc chiến lược phát triển quốc gia” trong giai đoạn mới của Việt Nam. Đó là:
• Nghị quyết 57-NQ/TW Về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia;
• Nghị quyết 59-NQ/TW Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới;
• Nghị quyết 68 -NQ/TW Về phát triển kinh tế tư nhân;
• Nghị quyết 70 -NQ/TW Về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
• Nghị quyết 71-NQ/TW Về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo;
• Nghị quyết số 72-NQ/TW Về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân;
• Nghị quyết 66-NQ/TW Về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Nếu 6 nghị quyết (57, 59,68, 70, 71,72) là đầu tàu chiến lược trên các lĩnh vực then chốt – từ công nghệ, hội nhập, nguồn lực kinh tế, năng lượng, con người và sức khỏe – thì Nghị quyết 66 chính là “trái tim thể chế”. Nói cách khác, nếu các nghị quyết khác là bộ khung chiến lược, thì Nghị quyết 66 là trái tim bơm máu thể chế vào toàn bộ cơ thể phát triển quốc gia. Nghị quyết 66 cho phép chúng ta chuyển từ tư duy ban hành văn bản sang tư duy pháp luật phục vụ phát triển, từ “đúng quy trình” sang “đúng kết quả”. Nó tháo gỡ điểm nghẽn lâu năm của chúng ta: luật thì tốt nhưng thực thi bị tắc, cơ hội phát triển chậm lại chỉ vì vướng mắc thủ tục.

Theo GS.TSKH Phan Xuân Sơn nhận định, Nghị quyết 66 là trái tim. Còn Tiến sĩ Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng Chính phủ thì cho rằng: Nhận định này là chính xác bởi như Tổng Bí thư đã nói: “Thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, nghĩa là vấn đề cải cách thể chế là nền tảng, là then chốt và mang tính quyết định tiến trình đổi mới của chúng ta. Khi chúng ta quyết tâm đột phá cải cách thể chế cũng chính là “đột phá của đột phá”.

Quốc hội xây “đường băng”, Chính phủ vận hành “bộ máy” cất cánh


Phát biểu tại cuộc gặp mặt các thế hệ đại biểu Quốc hội qua các thời kỳ, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Từ khát vọng độc lập đến khát vọng hùng cường, từ chân lý "Không có gì quý hơn độc lập tự do" đến mục tiêu phấn đấu "Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc, sánh vai các cường quốc năm châu", chúng ta đang đi trên một hành trình nối dài khát vọng. Trên hành trình đó, Quốc hội phải đi trước một bước về thể chế; phải dám mở đường, dám sửa đường, dám quyết định những vấn đề khó, những việc mới, những lĩnh vực chưa từng có tiền lệ. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gay gắt, biến đổi khí hậu phức tạp, khoa học, công nghệ bứt phá, chúng ta không thể "đi sau, về muộn". Chúng ta phải "đi cùng thời đại", thậm chí "đi tắt đón đầu", "đi trước mở đường" ở những lĩnh vực đặc thù.

anh bai 3
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Lãnh đạo Quốc hội cùng các đại biểu đón Tổng Bí thư Tô Lâm đến dự Chương trình gặp mặt các thế hệ đại biểu Quốc hội qua các thời kỳ. Ảnh: Phạm Thắng

Trước yêu cầu của kỷ nguyên mới, Quốc hội cần điều chỉnh chương trình xây dựng luật theo nguyên tắc linh hoạt, ưu tiên và tập trung giám sát chuyên đề, đưa luật vào cuộc sống. Việc tập trung nguồn lực cho các dự án luật then chốt, tăng phiên thảo luận chuyên sâu và mở rộng quyền chủ động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong điều chỉnh chương trình sẽ giúp luật được ban hành kịp thời, phù hợp thực tiễn.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ, Nghị quyết số 197 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật để kịp thời thể chế hóa ngay các quyết sách của Nghị quyết 66, tháo gỡ ngay những vướng mắc, bất cập về cơ chế tài chính, bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, chuyển đổi số trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Bài học kinh nghiệm

1. Cơ chế có trước, thống nhất tư duy vận hành theo sau

Chỉ ban hành cơ chế mà không thay đổi tư duy và năng lực vận hành thì kết quả hạn chế.


2. Dữ liệu là “nguồn sống” của luật hiện đại

Thiếu dữ liệu đáng tin cậy thì RIA thành hình thức. Vì vậy phải đầu tư dữ liệu công, chuẩn hóa metadata.


3. Minh bạch tạo ra tính khả thi

Công khai tiếp thu-giải trình và dashboard làm giảm khoảng cách giữa luật và thi hành.


4. Phải có chế tài trách nhiệm

Không ràng buộc trách nhiệm người đứng đầu sẽ khó xử lý nợ đọng văn bản. Nghị quyết số 197 của Quốc hội đã nêu nhiệm vụ xử lý hành vi lợi ích nhóm trong công tác lập pháp; cần triển khai nghiêm.

Để có quy trình thực thi thông suốt, hiệu quả, thì phải tháo gỡ điểm nghẽn, tạo hành lang thông thoáng cho vận hành cỗ máy theo pháp luật thực định. Phát biểu tại lễ Kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống ngành Tư pháp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ: chúng ta đã từng bước hiện thực hóa một nền pháp quyền nhân nghĩa dựa trên đạo lý, vì lợi ích của đất nước, của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; phải tiếp tục chuyển đổi trạng thái, đưa công tác xây dựng và thi hành pháp luật từ "điểm nghẽn của điểm nghẽn" trở thành "đột phá của đột phá", là "điểm tựa, đòn bẩy", đi sớm, đi trước mở đường cho đột phá phát triển.

anh bai 3 a2

Thủ tướng xác định rõ: Chính phủ phải chuyển các mục tiêu nghị quyết vào chương trình hành động chi tiết, phân công rõ đầu mối, đặt mốc thời gian, và sử dụng dữ liệu để theo dõi thực thi (Nghị quyết 140/NQ-CP và nghị quyết thường kỳ là công cụ quan trọng). Cơ chế đôn đốc, báo cáo định kỳ và công khai tiến độ trên dashboard quốc gia sẽ tạo áp lực chế tài nhằm tránh “nợ đọng văn bản”.

Trong triển khai thực hiện cụ thể Nghị quyết 66 của Bộ Chính trị, thì vai trò của các bộ ngành, cơ quan, địa phương là rất quan trọng. Sự vào cuộc quyết liệt, trách nhiệm Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố sẽ tạo bước đột phá trong xây dựng và thực thi pháp luật. Người đứng đầu phải trực tiếp chỉ đạo công tác quan trọng này; đổi mới tư duy nhận thức và hành động về xây dựng và thực thi pháp luật, xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ, trách nhiệm và chủ động xử lý mọi tình huống và bảo đảm cơ sở vật chất, chính sách xứng đáng cho đội ngũ cán bộ.

Bộ Tư pháp giúp Chính phủ giám sát, đôn đốc thực hiện nghiêm việc ban hành văn bản dưới luật để thực hiện tinh thần nghị quyết của Đảng và luật, nghị quyết của Quốc hội ban hành; áp dụng công nghệ, chuyển đổi số, AI giúp xử lý quá trình này nhanh chóng, chính xác, công bằng và công khai.

BẢNG KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

(Tư duy lập pháp mới trong kỷ nguyên số)

icon_chuanhoa_b3.png

A. Chuẩn hóa RIA

  • Quy định bắt buộc: hồ sơ dự luật có RIA tiêu chuẩn
  • Chuẩn dữ liệu: metadata mở (CSV/JSON, nguồn, tần
  • Phản biện độc lập: Hội đồng RIA quốc gia do Quốc hội chỉ định
icon_chuanhoa_b3_a2.png

B. Dashboard thi hành toàn quốc

  • Dashboard công khai, thời gian thực theo bộ/ngành/địa phương
  • Hiến thị % đúng hạn, tồn đọng, số ngày từ luật - nghị định
  • AI phân tích xu hướng, cảnh báo và gợi ý đôn đốc
icon_chuanhoa_b3_a4.png

C. Sandbox + Sunset Clause

  • Sandbox cho Al, dữ liệu, fintech, năng lượng tái tạo
  • Thử nghiệm có điều kiện, giám sát rủi ro
  • Sunset clause: hết hiệu lực nếu không đạt tiêu chí
icon_chuanhoa_b3_a3.png

D. Kỷ luật lập pháp và hậu kiểm

  • Trách nhiệm người đứng đầu: giải trình, chế tài nếu vi phạm
  • Hậu kiểm sau 12-24 tháng với KPI rõ ràng
  • Đo lường: tỷ lệ thi hành, chi phí tuân thủ, hài lòng của doanh nghiệp/người dân
icon_chuanhoa_b3_a5(1).png

E. Phối hợp nhiều bên

  • Cơ chế phản biện liên ngành, bản tiếp thu-giải trình công khai
  • Công khai lấy ý kiến phản biện
  • Đầu tư truyền thông chính sách, giảm nhiễu thông tin

Nghị quyết 66 cùng các nghị quyết “trụ cột” đã mở ra cơ hội lịch sử để Việt Nam nâng cấp hệ thống pháp luật, chuyển từ tư duy lập pháp phản biện sang tư duy lập pháp kiến tạo, dựa trên dữ liệu và minh bạch. Tuy nhiên, điều quyết định là khả năng triển khai: chuẩn hóa RIA (Đánh giá tác động chính sách), e-consultation (lấy ý kiến, tham vấn điện tử), dashboard (bảng điều khiển/bảng thông tin tổng hợp) công khai, regulatory sandbox (khung thử nghiệm pháp lý) và cơ chế kỷ luật- tất cả phải được cụ thể hoá bằng quy trình, nguồn lực và trách nhiệm.

Thể chế hóa kịp thời chính là “thước đo vàng” của đổi mới. Chỉ khi luật không còn nằm trên giấy, khi người dân và doanh nghiệp cảm nhận được lợi ích rõ ràng, và khi mọi chỉ số tiến độ, chất lượng được soi chiếu công khai, đó là lúc nghị quyết thực sự đi vào đời sống. Để làm được điều ấy, cần một hợp lực bền bỉ, quyết tâm chính trị từ Đảng, hành động nhất quán của Quốc hội và Chính phủ, cùng sự đồng hành có trách nhiệm của doanh nghiệp, chuyên gia và người dân. Khi tất cả cùng bước chung một nhịp, pháp luật mới thật sự trở thành nguồn năng lượng kiến tạo phát triển, thay vì chỉ là những con chữ trên trang giấy!

Tài liệu tham khảo

- Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

- Nghị quyết số 197/2025/QH15 của Quốc hội: Về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật.

- Nghị quyết số 140/NQ-CP của Chính phủ: Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

- Quyết định số 1612/QĐ-BTP ban hành Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội, Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ.

- Quyết định số 1737/QĐ-BCT QĐ ngày 18/6/2025 Ban hành Chương trình hành động của Bộ Công thương thực hiện Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 17 tháng 5 năm 2025 của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

- Nghị quyết số 204/2025/QH15 của Quốc hội: Về giảm thuế giá trị gia tăng.

- Nghị định số 174/2025/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 204/2025/QH15 ngày 17 tháng 6 năm 2025 của Quốc hội.

- Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị quán triệt (18/5/2025).

Tác giả: Thanh Hà - Vi Hoa - Thanh Mai - Chi An - Trung Hiếu
Trình bày:
Duy Thông

Thanh Hà - Vi Hoa - Thanh Mai - Chi An. Trung Hiếu. Trình bày: Duy Thông