Văn hóa - Thể thao

Để di sản làng nghề thành nguồn lực kinh tế

Hải Đường 30/10/2025 07:56

Việt Nam đang đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa. Trong bối cảnh đó, đưa di sản làng nghề thành nguồn lực kinh tế không còn là câu chuyện bảo tồn hay phát triển, mà là nâng tầm giá trị sản phẩm thủ công mỹ nghệ bằng ngôn ngữ sáng tạo đương đại.

Kể câu chuyện đương đại từ di sản

Việt Nam sở hữu nguồn di sản vô giá với hàng nghìn làng nghề thủ công trải dài khắp đất nước. Tất cả đều mang mã gene văn hóa, tri thức truyền thống và dấu ấn nổi bật. Như nghề gốm với sản phẩm bề mặt men rạn tinh xảo, hay chất men hoa nâu… không chỉ là kỹ thuật trang trí mà kết tinh hàng thế kỷ thử nghiệm, với “bí quyết nghề” được truyền từ đời này sang đời khác. Mỗi hoa văn trang trí là câu chuyện, biểu tượng văn hóa ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam, lưu trữ ký ức tập thể, kỹ năng gia truyền và bản sắc vùng miền.

beautyplus-collage-2025-10-29t04_09_04.png
Muốn đưa di sản làng nghề thành nguồn lực kinh tế, cần nâng tầm giá trị sản phẩm thủ công mỹ nghệ bằng ngôn ngữ sáng tạo đương đại. Ảnh: TH

Làng nghề là một phần của kinh tế nông thôn và được xác định là một ngành công nghiệp văn hóa trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, làng nghề chưa thể cất cánh vì thiếu ngôn ngữ diễn giải di sản. Đa phần làng nghề phát triển cục bộ, sản phẩm khó cạnh tranh, chưa chạm tới khách hàng đương đại… Trong khi lớp nghệ nhân ngày càng già đi, lớp trẻ không mặn mà vì không nhìn thấy tương lai kinh tế từ nghề truyền thống.

Theo nhà nghiên cứu Trần Quang Đức, thực trạng này diễn ra phổ biến trong nhiều thập kỷ, đến từ quan điểm sai lầm khi coi truyền thống là giá trị bất biến. Trong khi kinh nghiệm các quốc gia có nghề thủ công mỹ nghệ phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…, truyền thống luôn gắn liền với đời sống đương đại, có sự tiếp biến, bồi đắp, phát triển. Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức ví kinh nghiệm đúc kết nghìn đời ở làng nghề, mẫu mã, sản phẩm thủ công kết tinh sáng tạo của ông cha… giống như ngọn lửa hun đúc nên giá trị truyền thống. Cần giữ “ngọn lửa” ấy chứ không phải giữ “tro tàn”, bám lấy những gì còn lại, đóng đinh nó, không phát triển, tiếp biến.

“Ngọn lửa đó chính là tư duy sáng tạo, năng lực diễn giải và tái tạo di sản làng nghề trong tinh thần của thời đại hôm nay. Mấu chốt phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ không nằm ở việc sở hữu bao nhiêu làng nghề mà chúng ta kể bao nhiêu câu chuyện đương đại từ di sản đó. Thay vì chỉ bán một món đồ thủ công, phải bán sản phẩm sáng tạo, kết nối truyền thống và đương đại”, nhà nghiên cứu Trần Quang Đức phân tích.

Trong kỷ nguyên công nghiệp văn hóa, sản phẩm thủ công không còn là mục tiêu duy nhất. Thay vào đó, nó là một phần của chuỗi giá trị lớn hơn, bao gồm trải nghiệm, dịch vụ và câu chuyện. Việc tăng cường quảng bá hình ảnh các nghệ nhân hay rộng hơn là các làng nghề không chỉ giúp họ sống được với nghề mà còn góp phần quan trọng hình thành các điểm đến du lịch hấp dẫn. Thay vì chỉ là nơi mua bán sản phẩm, làng nghề có thể trở thành những không gian văn hóa, nơi du khách có thể gặp gỡ, trò chuyện với những con người giữ lửa nghề và chứng kiến tận mắt quá trình tạo ra sản phẩm. Chính trải nghiệm độc đáo này sẽ biến các làng nghề từ nơi sản xuất đơn thuần thành địa chỉ văn hóa.

Bảo hộ nhãn hiệu, gia tăng giá trị thương hiệu

Cùng với sự chuyển dịch của đời sống xã hội, hành trình tìm về di sản của các nghệ sĩ đã góp sức kể câu chuyện mới của làng nghề. Như các nhà thiết kế thời trang tìm về làng lụa Vạn Phúc (Hà Nội), cùng nghệ nhân tạo nên “ngôn ngữ mới” cho sản phẩm với hoa văn, kiểu cách hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường. Từ đây, lụa Vạn Phúc xuất hiện trên các sàn diễn thời trang quốc tế. Tương tự, gốm Bát Tràng (Hà Nội) hay mộc Kim Bồng (Hội An)… cũng không dừng lại ở sản phẩm truyền thống mà trở thành một phần của thiết kế nội thất cao cấp… Sáng tạo này không phá vỡ mạch di sản mà kết nối quá khứ với hiện đại.

Nhà nghiên cứu Trần Quang Đức so sánh bảo tồn, giữ nền nếp và cấp tiến, vận động, thích nghi như hai mặt âm - dương, đối nghịch nhưng bổ trợ nhau. “Chỉ khi kỹ thuật truyền thống được thổi vào tư duy sáng tạo, di sản mới thực sự tái sinh và tạo ra giá trị kinh tế, thu hút lớp trẻ kế cận, góp sức phát triển làng nghề…”.

Sáng tạo là điều kiện cần, nhưng để làng nghề phát triển thành một ngành công nghiệp văn hóa thực thụ cần một hệ sinh thái, bao gồm nghệ nhân, nhà thiết kế, doanh nghiệp, chính quyền, công nghệ… Cần hình thành chuỗi liên kết chặt chẽ, biến tài năng của nghệ nhân thành sản phẩm thương mại có vị trí vững chắc trên thị trường. Đặc biệt, cần quan tâm hơn tới tài sản trí tuệ gắn với bí quyết, công thức sáng tạo và thương hiệu của làng nghề.

Từ nghiên cứu “Nhận diện tài sản trí tuệ trong các làng nghề truyền thống”, TS. Đào Cao Sơn, Trường Đại học Thương mại, cho biết, chỉ một số ít làng nghề đã đăng ký nhãn hiệu tập thể, còn ít so với tiềm năng và chưa khai thác hết giá trị của nhãn hiệu trong xây dựng thương hiệu và cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cũng rất hạn chế. Các nghệ nhân và người lao động tại làng nghề thường coi trọng giá trị truyền thống hơn vấn đề pháp lý, dẫn đến các bí quyết, quy trình sản xuất thường được lưu truyền qua các thế hệ mà không được ghi chép hay quản lý.

“Những nguyên nhân này không chỉ làm giảm khả năng cạnh tranh mà còn hạn chế cơ hội phát triển bền vững của làng nghề, đòi hỏi các giải pháp mạnh mẽ từ nhiều phía để khắc phục. Từ đây, giúp các làng nghề truyền thống được hồi sinh, gia tăng giá trị thương mại hóa, thúc đẩy sự đổi mới sáng tạo và phát triển thương hiệu, góp phần vào sự phát triển chung của kinh tế và văn hóa đất nước”, TS. Đào Cao Sơn nhận định.

Hải Đường