Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy tăng trưởng thực chất, bền vững
Tại Tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội do Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính tổ chức mới đây, các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, để thúc đẩy tăng trưởng thực chất và bền vững, cần nâng cao năng lực sản xuất trong nước, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất chiến lược, đẩy nhanh tiến trình tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Nâng cao giá trị gia tăng, sức cạnh tranh của sản xuất trong nước
Nhìn thẳng vào thực trạng nền kinh tế, Chuyên gia Kinh tế trưởng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), TS. Cấn Văn Lực cho rằng, nền sản xuất của Việt Nam hiện vẫn ở cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu với hầu hết các ngành công nghiệp, giá trị gia tăng còn thấp, cạnh tranh cao, thâm dụng lao động giá rẻ, trong khi tài nguyên sử dụng chưa hợp lý, chưa hiệu quả, dẫn đến những rủi ro về ô nhiễm môi trường và phát triển thiếu bền vững.

Mặc dù Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhưng hiện trạng phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt trên các khía cạnh: tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành sản xuất chiến lược; hàm lượng giá trị gia tăng (GTGT) nội địa trong xuất khẩu; đóng góp của khu vực trong nước trong xuất khẩu; mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Một trong những nguyên nhân chủ quan được TS. Cấn Văn Lực chỉ ra, đó là Việt Nam còn thiếu chính sách, chiến lược phát triển công nghiệp bài bản, việc tổ chức thực thi còn yếu. Cụ thể, chính sách phát triển công nghiệp của nước ta còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, nhiều văn bản, nhưng thiếu tính hệ thống, nhất quán và chưa có một chiến lược thống nhất, dẫn dắt toàn bộ hệ thống. Chưa xác định được ngành, lĩnh vực mũi nhọn rõ ràng, có lộ trình cụ thể: văn bản, chính sách thường liệt kê “nhiều ngành ưu tiên” nhưng thiếu chọn lọc và tập trung nguồn lực. Nhiều văn bản định hướng nhưng chưa có chiến lược ngành cụ thể đi kèm nguồn lực và cơ chế giám sát.
Cùng với đó, một số chính sách thay đổi nhanh, thiếu tính ổn định và nhất quán, gây khó cho doanh nghiệp khi đầu tư dài hạn; còn chồng chéo, thiếu liên kết giữa các bộ, ngành, địa phương; giữa công nghiệp và các lĩnh vực như đất đai, năng lượng, môi trường. Cơ chế khuyến khích chưa đủ mạnh. Ưu đãi FDI tốt, nhưng hỗ trợ doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn chưa được nhiều và phân tán, chưa hiệu quả.
Chính sách về tài chính, tín dụng chưa hiệu quả. Việc tiếp cận vốn còn khó khăn; chưa có cơ chế tài chính đặc thù cho công nghiệp như: chính sách tài chính, tín dụng chủ yếu mang tính chung cho toàn nền kinh tế, chưa có chính sách tài chính, tín dụng riêng cho phát triển công nghiệp hoặc công nghiệp phụ trợ. Thiếu nguồn tài chính dài hạn cho đầu tư phát triển công nghiệp, đổi mới công nghiệp, trong khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển, huy động vốn qua kênh phát hành cổ phiếu còn rất khiêm tốn, thị trường quỹ đầu tư còn rất nhỏ...
Chính sách thuế, ưu đãi tài chính chưa đồng bộ, cụ thể, ưu đãi thuế tập trung nhiều cho FDI nhưng doanh nghiệp trong nước hưởng lợi ít, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp chiến lược, công nghiệp hỗ trợ; thiếu các chính sách khấu trừ thuế nghiên cứu và phát triển (R&D), khuyến khích đổi mới công nghệ nên doanh nghiệp ít động lực đầu tư cho R&D.
Tuy nhiên, bất cập này đang dần được tháo gỡ khi gần đây chi phí R&D đã được đưa vào khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI
Từ thực trạng nêu trên, đề xuất giải pháp trọng tâm cho giai đoạn 2026 - 2030 và tiếp theo, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV kiến nghị, đẩy nhanh hoàn thiện thể chế, chính sách về nâng cao năng lực sản xuất, phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa tại Việt Nam. Cần có chính sách công nghiệp tổng thể cho giai đoạn 2026 - 2030 và tiếp theo, tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao.
Triển khai hiệu quả các chính sách, nghị định đã ban bành, nhất là: Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025; Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025; Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 198/2025/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 139/NQ-CP của Chính phủ về phát triển kinh tế tư nhân; Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo cũng như các Nghị định, Quyết định có liên quan của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ...
Tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích sản xuất trong nước, áp dụng ưu đãi thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào và thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; thiết kế cơ chế tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ sản xuất linh kiện điện tử, phụ tùng…

TS. Cấn Văn Lực kiến nghị, cần thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước và liên doanh, liên kết với doanh nghiệp FDI. Cụ thể là điều chỉnh chính sách thu hút FDI trong bối cảnh mới, tập trung vào các lĩnh vực, dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và GTGT lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sạch, công nghiệp tuần hoàn, thân thiện môi trường… Đồng thời, ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam, hạn chế thu hút các dự án chỉ sử dụng lao động giá rẻ, không tạo liên kết với doanh nghiệp trong nước; bảo đảm các dự án FDI đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững, thay vì chạy theo số lượng.
Đặc biệt, theo TS. Cấn Văn Lực, cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI thông qua việc hỗ trợ đào tạo về quản trị chuỗi cung ứng, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế (ISO, IATF); hỗ trợ chi phí, thủ tục chứng nhận chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đủ điều kiện trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn FDI; thúc đẩy hình thức mua bán - sáp nhập (M&A) để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Đồng tình với ý kiến trên, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn cho rằng, cần có các chính sách thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, thông qua các chương trình kết nối cung cầu, chia sẻ tiêu chuẩn kỹ thuật, hỗ trợ kỹ thuật và nâng cao năng lực sản xuất.
Đồng thời, cần xây dựng các cụm công nghiệp đổi mới sáng tạo, khu công nghiệp hỗ trợ khởi nghiệp, nơi doanh nghiệp lớn và nhỏ, trong và ngoài nước có thể cùng tham gia phát triển sản phẩm, quy trình và công nghệ. Nhà nước cần có vai trò “trung gian thúc đẩy” nhằm tạo ra các mối liên kết bền vững, hiệu quả và cùng có lợi giữa các thành phần kinh tế, ông Đậu Anh Tuấn kiến nghị.