Nghị quyết 71 - “đường băng” mới cho giáo dục tư thục
Trong vài năm gần đây, giáo dục tư thục bậc phổ thông tăng trưởng nhanh tại các đô thị do áp lực quy mô và nhu cầu học tập đa dạng. Tuy nhiên, không ít trường tư vẫn bị “kẹt” ở những nút thắt quen thuộc: đất đai - vốn - thủ tục - nhân lực. Nghị quyết số 71-NQ/TW (22/8/2025) về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo vì thế được xem như "đường băng" mới để giáo dục tư thục cất cánh theo một quỹ đạo cân bằng giữa chất lượng, công bằng và trách nhiệm.
“Thời cơ vàng” của giáo dục tư thục
Nghị quyết 71 khẳng định: giáo dục công lập là trụ cột, giáo dục ngoài công lập là thành phần quan trọng cấu thành hệ thống giáo dục quốc dân; xây dựng nền giáo dục mở, liên thông, bảo đảm cơ hội học tập công bằng, bình đẳng cho mọi người, đáp ứng nhu cầu xã hội, thúc đẩy học tập suốt đời.
Như vậy, Nghị quyết đã định vị vai trò chính danh của trường tư trong cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân. Từ chỗ thường được nhìn nhận như “van xả áp” khi trường công quá tải, trường tư được đặt đúng vị trí đồng kiến tạo chất lượng - công bằng - hội nhập. Đây là thay đổi không chỉ về câu chữ, mà dịch chuyển nhận thức của phụ huynh, nhà đầu tư, hiệu trưởng và cơ quan quản lý - mở không gian cho các mô hình hợp tác công - tư trong cung ứng dịch vụ giáo dục ở những nơi trường công chưa đáp ứng kịp.

Nghị quyết đưa ra đòn bẩy nguồn lực rất cụ thể khi quy định chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo đạt tối thiểu 20% tổng chi, trong đó có chỉ tiêu tối thiểu cho đầu tư (ít nhất 5%); đồng thời mở rộng hỗ trợ tài chính và tín dụng ưu đãi cho người học, “không để học sinh, sinh viên nào phải bỏ học vì điều kiện tài chính”. Giải pháp này tạo mặt bằng bảo trợ công cho cả công lập và ngoài công lập, giảm nguy cơ phân tầng cơ hội học tập theo thu nhập gia đình.
Nghị quyết trực diện tháo gỡ các nút thắt thể chế - đất đai - thuế vốn “ăn vào gốc” hiệu quả tài chính của dự án trường tư: ưu tiên dành quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất giáo dục; không thu tiền sử dụng đất, giảm tiền thuê/thuế đất cho cơ sở giáo dục trong nước; không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp với cơ sở công lập và cơ sở tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; và ưu tiên sử dụng trụ sở nhà nước dôi dư, cho thuê công trình thuộc sở hữu Nhà nước để làm trường học. “Combo” này giúp giảm chi phí vốn, cải thiện tỉ suất hoàn vốn và rút ngắn thời gian hoàn vốn - những yếu tố quyết định dòng vốn dài hạn chảy vào giáo dục.
Tinh thần phân cấp - phân quyền gắn với tự chủ và hậu kiểm tạo tiền đề để các địa phương cắt giảm tiền kiểm và thủ tục “xin - cho”. Khi vai trò giám sát - kiểm định được nâng cao, cơ sở giáo dục tư thục chủ động hơn trong kế hoạch tuyển sinh và tổ chức dạy học; còn cơ quan quản lý “đổi vai” sang hậu kiểm chất lượng và bảo vệ quyền lợi học sinh. Những tín hiệu sớm ở một số địa phương cho thấy xu hướng này đang bắt đầu đi vào cuộc sống.
Ba tác động trực tiếp tới giáo dục tư thục
Một là, môi trường đầu tư và cơ sở vật chất “dễ thở” hơn. Với ưu đãi về đất đai - thuế - tiếp cận cơ sở công dôi dư, bài toán chi phí cố định của trường tư nhẹ hơn đáng kể. Khi quỹ đất giáo dục được bảo đảm và cơ chế chuyển đổi mục đích linh hoạt được mở ra, các dự án trường liên cấp, nội trú - bán trú ở vùng đô thị hóa có cơ hội tối ưu quy hoạch: khu học chung - chuyên đề - thể thao - ký túc xá, gắn với tiêu chuẩn an toàn, diện tích/học sinh, y tế học đường được nâng sàn.

Hai là, cuộc chơi chuyển từ “khác biệt hình thức” sang “khác biệt trải nghiệm - kết quả”. Khi mặt bằng tối thiểu về diện tích, an toàn, trang thiết bị, chuyển đổi số, tiếng Anh… được nâng lên, lợi thế của trường tư không còn chỉ là cơ sở vật chất “đẹp hơn” mà là chương trình - phương pháp - văn hóa học đường - hệ sinh thái trải nghiệm. Trường tư linh hoạt đưa giáo dục STEAM/AI, dự án cộng đồng, hướng nghiệp sớm, hồ sơ portfolio vào lộ trình học tập; đồng thời thiết kế chính sách học bổng - hỗ trợ tài chính để thu hút học sinh đa dạng nền tảng.
Ba là, thị trường nhân lực giáo viên cạnh tranh tích cực hơn. Nghị quyết ưu tiên chính sách đãi ngộ đặc thù, nâng chuẩn nghề và thu hút người giỏi vào giảng dạy. Điều này kéo mặt bằng phúc lợi và yêu cầu nghề nghiệp lên cao, buộc cả công và tư phải đầu tư nghiêm túc cho phát triển chuyên môn liên tục, năng lực số và đạo đức nghề. Trường tư nếu xây dựng lộ trình nghề nghiệp rõ ràng, văn hóa học thuật công bằng và chế độ đãi ngộ linh hoạt sẽ có lợi thế thu hút - giữ chân đội ngũ nòng cốt.
Có thể thấy, Nghị quyết 71 không chỉ nâng vị thế khu vực ngoài công lập mà còn đặt sẵn “hộp công cụ” để tháo gỡ những nút thắt dai dẳng: nguồn lực công (tối thiểu 20% ngân sách nhà nước), ưu đãi đầu tư (đất, thuế, cơ sở công dôi dư), cơ chế quản trị mới (phân quyền - tự chủ - hậu kiểm) và đầu tư đội ngũ (đãi ngộ đặc thù, phát triển chuyên môn). Nhưng "cất cánh" được hay không phụ thuộc vào năng lực nội sinh của từng nhà trường, sự công bằng trong thực thi chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước.
Nếu triển khai quyết liệt, Nghị quyết 71 có thể mở ra chu kỳ tăng trưởng mới cho giáo dục tư thục: mở rộng hợp lý về quy mô, nâng chất lượng theo chuẩn quốc gia - quốc tế, góp phần giảm áp lực hệ thống công và tạo thêm cơ hội học tập công bằng cho học sinh trên toàn quốc. Đó là giá trị lâu dài của một “cuộc cách mạng mới” trong giáo dục, nơi cái đích không chỉ là nhiều trường hơn, mà là nhiều cuộc đời học sinh tốt đẹp hơn nhờ một nền giáo dục được tổ chức thông minh, nhân văn và có trách nhiệm.