Kinh tế

Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia: Doanh nghiệp tư nhân - nòng cốt trong lĩnh vực năng lượng

TS. Đoàn Văn Bình - Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Năng lượng 06/09/2025 06:41

Nghị quyết số 70-NQ/TW về an ninh năng lượng đã mở ra cơ hội để doanh nghiệp tư nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong đầu tư, sản xuất và kinh doanh năng lượng. Việc tạo cơ chế minh bạch, công bằng, cho phép tư nhân tiếp cận các dự án lớn, kể cả năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi, LNG, góp phần giải quyết bài toán vốn, giảm gánh nặng đầu tư công và nâng cao hiệu quả quản trị.

Khẳng định vai trò chủ động trong chuỗi giá trị năng lượng mới

Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 70-NQ/TW) ra đời trong một bối cảnh đặc biệt: từ đầu năm 2025, Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%, và từ năm 2026 tốc độ tăng trưởng được xác định ở mức hai con số.

Trước đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đặt nền móng cho phát triển năng lượng quốc gia. Nhờ đó, ngành năng lượng Việt Nam đã mở rộng cả về quy mô và chất lượng, từ điện than, khí, dầu khí đến năng lượng tái tạo.

Tuy nhiên, bối cảnh 2020 và bối cảnh 2025 có sự khác biệt cơ bản, và bởi lẽ đó, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW là rất kịp thời, với nhiều quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá. Cụ thể, Nghị quyết số 70-NQ/TW khẳng định rõ: bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng của phát triển bền vững; điểm đột phá thể hiện ở việc gắn kết chặt chẽ giữa mục tiêu tăng trưởng nhanh với chuyển đổi năng lượng xanh, sạch.

điện gió Bạc Liêu
Dự án điện gió tại tỉnh Cà Mau. Ảnh: Đan Thanh

Nghị quyết cũng nhấn mạnh phát triển năng lượng không chỉ để “đủ điện cho phát triển” như trước, mà phải bảo đảm “năng lượng chất lượng cao, giá hợp lý, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế”.

Nghị quyết số 70-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, ngành năng lượng phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển với cơ cấu hợp lý, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt trên 25 - 30%, giảm mạnh tỷ trọng điện than, phát triển nhanh điện khí, điện gió ngoài khơi và năng lượng mới như hydro. Tầm nhìn đến 2045, Việt Nam không chỉ bảo đảm an ninh năng lượng vững chắc, mà còn trở thành quốc gia có hệ thống năng lượng thông minh, hiện đại, có khả năng kết nối sâu với khu vực ASEAN và thế giới. Đây là mục tiêu mang tính đột phá, thể hiện khát vọng không chỉ “đuổi kịp” mà còn “vượt lên” trong lĩnh vực năng lượng. Nếu đạt được, Việt Nam sẽ không còn phụ thuộc quá lớn vào nhập khẩu năng lượng hóa thạch, đồng thời khẳng định vai trò chủ động trong phát triển công nghệ và chuỗi giá trị năng lượng mới.

Khung chính sách vững chắc tạo niềm tin cho doanh nghiệp

Để đạt được các mục tiêu trên, Nghị quyết số 70-NQ/TW đề ra nhiều giải pháp đột phá mang tính căn cơ và sáng tạo trong phát triển năng lượng.

Thứ nhất, về nguồn cung năng lượng: đẩy mạnh khai thác tiềm năng năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, sinh khối, rác thải, địa nhiệt, thủy triều; đồng thời từng bước triển khai hydro xanh.

Thứ hai, về hạ tầng năng lượng: Nghị quyết nhấn mạnh đầu tư xây dựng hệ thống lưới điện thông minh, hiện đại, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng tái tạo.

Thứ ba, về cơ chế thị trường: thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện thị trường điện cạnh tranh hoàn chỉnh, triển khai cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA) giữa nhà sản xuất và khách hàng tiêu thụ lớn, đồng thời áp dụng cơ chế đấu thầu, đấu giá minh bạch.

Thứ tư, về khoa học công nghệ và nhân lực: Nghị quyết đề cao việc làm chủ công nghệ lõi, phát triển ngành công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng, đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thứ năm, về hợp tác quốc tế: Nghị quyết chủ trương mở rộng liên kết lưới điện và khí trong khu vực ASEAN, tham gia sâu hơn vào thị trường năng lượng quốc tế, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để chủ động nhập khẩu điện, khí và dầu.

Nhìn tổng thể, Nghị quyết số 70-NQ/TW có ý nghĩa không chỉ trong lĩnh vực năng lượng, mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Với mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số giai đoạn 2026 - 2030 và những năm tiếp theo, nhu cầu năng lượng tăng mạnh, nếu không có chính sách đột phá, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng thiếu hụt năng lượng nghiêm trọng. Nghị quyết số 70-NQ/TW đã kịp thời tạo khung chính sách vững chắc, giúp bảo đảm đủ năng lượng với chất lượng cao, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và cộng đồng doanh nghiệp.

Một điểm đột phá đặc biệt trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW chính là sự tham gia mạnh mẽ của khu vực kinh tế tư nhân. Gắn với tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, Nghị quyết về năng lượng đã mở ra cơ hội để doanh nghiệp tư nhân trở thành lực lượng nòng cốt trong đầu tư, sản xuất và kinh doanh năng lượng. Tư nhân không chỉ tham gia ở khâu phát điện mà còn mở rộng sang truyền tải, phân phối, dịch vụ và công nghệ năng lượng. Việc tạo cơ chế minh bạch, công bằng, cho phép tư nhân tiếp cận các dự án lớn, kể cả năng lượng tái tạo, điện gió ngoài khơi, LNG, góp phần giải quyết bài toán vốn, giảm gánh nặng đầu tư công và nâng cao hiệu quả quản trị.

Góp phần quyết định vào mục tiêu phát triển nhanh và bền vững

Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta không thể phát triển nếu thiếu khoa học và công nghệ. Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã đặt nền tảng cho việc ứng dụng công nghệ cao trong các ngành kinh tế, trong đó năng lượng là lĩnh vực trọng yếu. Gắn với Nghị quyết số 70-NQ/TW, vai trò của khoa học công nghệ được xem là trụ cột giúp Việt Nam vượt qua điểm nghẽn về hiệu suất, môi trường và an ninh năng lượng. Việc đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, lưu trữ năng lượng, lưới điện thông minh không chỉ giúp nâng cao năng lực điều độ, mà còn giảm tổn thất, tối ưu hóa vận hành hệ thống.

Đặc biệt, sự xuất hiện trở lại của điện hạt nhân trong Nghị quyết số 70-NQ/TW cho thấy tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc đa dạng hóa nguồn cung, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và bảo đảm an ninh năng lượng dài hạn.

Một điểm đáng chú ý nữa là gắn với tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW về cải cách thể chế, Nghị quyết số 70-NQ/TW đưa ra yêu cầu cải cách triệt để thủ tục hành chính trong lĩnh vực năng lượng. Mục tiêu là cắt giảm từ 30 - 50% thời gian thực hiện các thủ tục và chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và người dân. Ngay trong năm 2025, phải hoàn thành việc tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế đang cản trở sự phát triển của ngành năng lượng. Đây là giải pháp đột phá nhằm tạo môi trường minh bạch, thuận lợi, giảm chi phí xã hội và khơi thông nguồn lực cho phát triển năng lượng bền vững.

Có thể khẳng định rằng, Nghị quyết số 70-NQ/TW ra đời là sự tất yếu lịch sử, kế thừa tinh thần của Nghị quyết số 55-NQ/TW nhưng mang tính đột phá rõ rệt, phù hợp với bối cảnh tăng trưởng kinh tế cao và yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết đã đưa ra tầm nhìn dài hạn, các mục tiêu cụ thể và giải pháp toàn diện, tạo động lực mạnh mẽ để ngành năng lượng Việt Nam phát triển vượt bậc.

Trong giai đoạn tới, thực hiện thành công Nghị quyết số 70-NQ/TW sẽ không chỉ bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, mà còn góp phần quyết định vào việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, đưa Việt Nam trở thành quốc gia công nghiệp phát triển, có vị thế cao trong khu vực và trên thế giới.

TS. Đoàn Văn Bình - Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Năng lượng