Việc thực hiện các kiến nghị sau giám sátBảo đảm tính khả thi và tính pháp lý
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND cần quy định cụ thể hơn về thời hạn, chế tài để bảo đảm tính khả thi và ràng buộc tính pháp lý của việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát.
Nghiên cứu bổ sung các hình thức giám sát mới
Cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá, các nội dung quy định về thẩm quyền giám sát, các hoạt động giám sát, thẩm quyền trong việc xem xét kết quả giám sát của Quốc hội, HĐND đã có sự kế thừa Luật hiện hành. Đồng thời, dự thảo Luật đã rà soát, điều chỉnh và bổ sung nhiều quy định mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với các quy định của pháp luật khác liên quan mới được Quốc hội thông qua tại các kỳ họp gần đây.
Dự thảo Luật cũng đã tiếp thu các yêu cầu thực tiễn tại Diễn đàn của Quốc hội về hoạt động giám sát mà Lãnh đạo Quốc hội đã có kết luận. Nội dung dự thảo Luật chỉ quy định những vấn đề khung, có tính ổn định, lâu dài; những vấn đề có tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội và HĐND; lược bỏ toàn bộ những quy định cụ thể về trình tự thủ tục tiến hành các hoạt động giám sát, cơ chế phân công tổ chức thực hiện... Điều này là phù hợp và bảo đảm quán triệt yêu cầu đổi mới tư duy xây dựng pháp luật.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị, cần nghiên cứu bổ sung các hình thức giám sát mới phù hợp với thực tiễn, như giám sát thông qua công nghệ số, cơ sở dữ liệu điện tử, những phương thức giám sát mới. “Cần quy định cụ thể hơn về thời hạn, chế tài để bảo đảm tính khả thi và ràng buộc tính pháp lý của việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát, bởi, giám sát của Quốc hội là giám sát quyền lực, không phải là giám sát xã hội. Đây là một trong những tồn tại làm cho hoạt động giám sát vừa qua không bảo đảm được yêu cầu và còn hình thức”. Nhấn mạnh điều này, Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị, cần quy định rõ nguyên tắc công khai kết quả giám sát, trừ trường hợp bí mật nhà nước hoặc bí mật đời tư theo luật để nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan chịu sự giám sát.
.jpg)
Liên quan đến thẩm quyền giám sát, phân định thẩm quyền giám sát của Quốc hội và HĐND, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng bày tỏ đồng tình với quy định như dự thảo Luật, đó là phân định rõ hơn thẩm quyền của từng chủ thể giám sát, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền để góp phần bảo đảm phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong giám sát tối cao của Quốc hội với HĐND cũng như các cơ quan khác của Quốc hội và HĐND.
Theo khoản 1 Điều 13 dự thảo Luật, thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội là giám sát tối cao hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, thành viên khác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập trong việc tuân theo Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Khoản 3 Điều 13 quy định, khi xét thấy cần thiết, Quốc hội tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp cho rằng, quy định như khoản 1 là tập trung vào đối tượng giám sát tối cao là các cơ quan nhà nước ở Trung ương, do đó, cần làm rõ thêm như nào là “khi xét thấy cần thiết” tại khoản 3 để bảo đảm thuận lợi và thống nhất trong tổ chức thực hiện.
Xác định rõ phạm vi giám sát
Dự thảo Luật bổ sung quy định về hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tuân thủ về trình tự thủ tục tiếp thu ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan góp ý vào dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các luật có liên quan.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Lâm Văn Mẫn cho rằng, bổ sung quy định trên là cần thiết để thể chế hóa kịp thời và thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, giải quyết những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn; tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc tuân thủ trình tự thủ tục lấy ý kiến, tiếp thu ý kiến đóng góp của các đối tượng chịu sự tác động và của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đóng góp vào dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết.
Bên cạnh đó, việc bổ sung quy định trên cũng góp phần xây dựng hệ pháp luật theo định hướng lấy quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm. Tuy nhiên, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc cũng đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu đánh giá kỹ lưỡng về tác động của việc bổ sung quy định này trong dự thảo Luật; rà soát xác định rõ phạm vi giám sát, bảo đảm khả thi và thống nhất quy định pháp luật liên quan.
Về thẩm quyền của HĐND trong xem xét kết quả giám sát, khoản 2 Điều 29 dự thảo Luật quy định: căn cứ vào kết quả giám sát, HĐND có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban của HĐND, Chủ tịch UBND, Phó Chủ tịch UBND và các Ủy viên UBND.
“Quy định như dự thảo Luật thiếu sự phân cấp rõ ràng giữa cấp tỉnh và cấp xã; thẩm quyền này của HĐND được thực hiện ở cấp nào? Và theo quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tại điểm g khoản 1 Điều 15 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương thì HĐND cấp nào có thẩm quyền bầu miễn nhiệm bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Trưởng Ban HĐND cấp đó”, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc băn khoăn.
Mặt khác, đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên UBND cùng cấp, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc đề nghị, nghiên cứu quy định rõ thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh và thẩm quyền của HĐND cấp xã; tách thành hai khoản riêng quy định về thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh và thẩm quyền của HĐND cấp xã.