Thị trường

Ngành sữa Việt Nam: Dư địa lớn, kỳ vọng bứt phá

Hạnh Nhung 05/08/2025 20:19

Với mức tiêu thụ sữa bình quân còn thấp so với khu vực và thế giới, ngành sữa Việt Nam đang đứng trước cơ hội bứt phá mạnh mẽ. Chiến lược phát triển ngành đến năm 2030, tầm nhìn 2045 được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng cho sản xuất bền vững, tăng tỷ lệ tự chủ nguyên liệu và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Ảnh: Hạnh Nhung
Toàn cảnh Hội thảo khoa học “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Ảnh: Hạnh Nhung

Nhiều dư địa phát triển

Trong khuôn khổ chuỗi sự kiện “Khoa học và Công nghệ ngành công nghiệp sữa – Tuần lễ Sữa tươi Việt Nam”, ngày 5/8, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương (Bộ Công Thương) tổ chức Hội thảo khoa học “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.

Tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài nhận định: Sữa được coi là “thực phẩm lành mạnh”, phù hợp với mọi lứa tuổi. Tất cả các hoạt chất dinh dưỡng như vitamin, khoáng chất, protein, carbohydrate và chất béo thiết yếu đều có trong sữa.

Theo thống kê, mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người tại Việt Nam hiện đạt khoảng 27 lít/người/năm. Dự báo mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm sẽ tiếp tục tăng từ 7 - 8%. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, mức tiêu thụ sữa của Việt Nam vẫn còn khá thấp. Trong khi đó, Thái Lan đạt 35 lít/người/năm, Singapore 45 lít/người/năm, còn các nước châu Âu dao động từ 80 - 100 lít/người/năm.

Sau hơn 10 năm triển khai Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến sữa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, ngành sữa đã đạt được những mục tiêu đề ra. Năm 2023, sản lượng sữa tươi trong nước đạt khoảng 1,86 tỷ lít; sữa bột đạt khoảng 154,8 nghìn tấn. Tuy nhiên, nguồn sữa tươi khai thác từ đàn bò sữa trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 38% nhu cầu sản xuất.

Thứ trưởng đánh giá, thời gian qua, các doanh nghiệp sữa Việt Nam đã đạt được nhiều thành công, bảo đảm nhu cầu trong nước và tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) để xuất khẩu sang 63 quốc gia, vùng lãnh thổ, đạt kết quả đáng khích lệ. Những doanh nghiệp hàng đầu như Vinamilk, TH cũng đã bước đầu phát triển được đàn bò sữa quy mô lớn.

Tuy nhiên, sản lượng sữa tính theo đầu người vẫn còn thấp so với khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với sữa dạng lỏng vẫn còn một số bất cập. Cùng với đó là áp lực cạnh tranh từ các doanh nghiệp nước ngoài, sự thay đổi về thị hiếu và thói quen tiêu dùng, hướng tới các sản phẩm sạch, sản phẩm hữu cơ…

Trước những thách thức đó, Thứ trưởng Trương Thanh Hoài nhấn mạnh, việc Chính phủ chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Chiến lược phát triển ngành sữa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là rất cần thiết. Chiến lược này sẽ góp phần định hướng doanh nghiệp ngành sữa phát triển theo hướng bền vững và hiệu quả.

Chiến lược đặt ra mục tiêu tăng trưởng toàn ngành đạt 8–9% mỗi năm. Tỷ lệ sữa tươi nguyên liệu trong nước được nâng lên khoảng 53–56% vào năm 2030 và 62–65% vào năm 2045. Đồng thời, sản lượng tiêu dùng bình quân đầu người dự kiến đạt 58 kg/năm vào năm 2045 hoặc cao hơn.

Kết hợp chăn nuôi công nghệ cao và hộ gia đình

Để hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược, Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam, TS. Nguyễn Xuân Dương, nhấn mạnh vai trò nền tảng của việc phát triển nguồn nguyên liệu sữa tươi trong nước. Xu hướng chuyển từ sữa hoàn nguyên (pha chế từ sữa bột nhập khẩu) sang sữa tươi sạch là tất yếu, không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt, chương trình Sữa học đường chỉ thực sự phát huy hiệu quả nếu sử dụng sữa tươi chất lượng cao, như mô hình đã được áp dụng thành công tại các nước phát triển (EU, Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc...), nơi hơn 90% lượng sữa tiêu thụ hàng ngày là sữa tươi.

Ông Dương cảnh báo: “Nếu không có chính sách kịp thời và mạnh mẽ, đến năm 2030 ngành sữa khó đạt được mục tiêu tự túc 60% nguyên liệu”. Để vượt qua thách thức này, ông đề xuất phát triển đồng thời hai mô hình chăn nuôi: chăn nuôi thâm canh công nghệ cao quy mô lớn do các tập đoàn đảm nhiệm, và mô hình hộ gia đình chuyên nghiệp, quy mô từ 30 - 50 con. Mô hình này không chỉ tận dụng được lao động nông thôn và phụ phẩm nông nghiệp, mà còn tạo điều kiện để lan tỏa chuỗi giá trị, giúp người dân địa phương hưởng lợi trực tiếp từ phát triển ngành sữa.

Ngoài ra, ông cũng đề nghị các bộ, ngành liên quan sớm hoàn thiện chính sách và tiêu chuẩn rõ ràng để phân biệt giữa sữa tươi và sữa hoàn nguyên; đồng thời có cơ chế khuyến khích sử dụng sữa tươi nội địa, đi kèm chiến dịch truyền thông sâu rộng giúp người tiêu dùng hiểu đúng, lựa chọn đúng, từ đó thúc đẩy tiêu dùng sữa tươi sạch trong nước.

Từ phía doanh nghiệp, ông Ngô Minh Hải, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn TH, cho biết, đơn vị hiện sở hữu đàn bò sữa gần 70.000 con, năng suất trung bình đạt 35 lít/con/ngày – nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực. Dự án chăn nuôi bò sữa công nghệ cao của TH tại Nghệ An được đưa vào vận hành chỉ sau 14 tháng, trở thành hình mẫu tiên phong trong ngành. TH cũng là doanh nghiệp tiên phong trong triển khai Chương trình Sữa học đường Quốc gia, góp phần nâng cao nhận thức và thói quen sử dụng sữa tươi trong cộng đồng.

Theo ông Hải, việc thúc đẩy tiêu dùng sữa tươi không chỉ giúp cải thiện sức khỏe người dân mà còn tạo lập thị trường ổn định, bền vững cho ngành sữa nội địa. Vì vậy, ông đề xuất áp dụng thuế VAT 0% đối với sữa tươi nguyên liệu sản xuất trong nước để kích thích cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần có chính sách trợ giá cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực chăn nuôi bò sữa công nghệ cao, cũng như cơ chế đặc biệt về tiếp cận đất đai để thúc đẩy tích tụ ruộng đất, tạo quỹ đất đủ lớn cho phát triển các vùng chăn nuôi tập trung. Đặc biệt, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích và hỗ trợ nông dân tham gia chuỗi liên kết sản xuất với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.

Hạnh Nhung