Diễn đàn Quốc hội

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa:Chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang quản trị hiện đại

Anh Thảo 01/08/2025 14:41

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang quản trị hiện đại dựa trên dữ liệu và khoa học, thể hiện tư tưởng cốt lõi lấy khoa học công nghệ làm công cụ quản trị quốc gia.

Ưu tiên giám sát và hậu kiểm, giảm can thiệp hành chính

Giới thiệu về điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, Luật đã đổi mới toàn diện phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng chuyển đổi mô hình quản lý chất lượng theo rủi ro.

Cụ thể, Luật phân loại sản phẩm, hàng hóa được chuyển từ phân nhóm hành chính (nhóm 1, nhóm 2) sang phân loại sản phẩm, hàng hóa theo ba mức độ rủi ro (thấp, trung bình, cao). Ưu tiên giám sát và hậu kiểm thay cho tiền kiểm nhằm tăng hiệu quả, giảm can thiệp hành chính.

v1.jpg
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định giới thiệu những điểm mới của luật

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nêu rõ, “những quy định nêu trên là bước chuyển từ mô hình quản lý hành chính sang quản trị hiện đại dựa trên dữ liệu và khoa học, thể hiện tư tưởng cốt lõi lấy khoa học công nghệ làm công cụ quản trị quốc gia”.

Luật quy định rõ nguyên tắc quản lý chất lượng phù hợp với từng mức độ rủi ro. Cách tiếp cận này giúp giảm chi phí tuân thủ, đồng thời phân bổ hợp lý nguồn lực quản lý vào nhóm có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, an toàn và môi trường.

Đó là, với rủi ro thấp, tự công bố tiêu chuẩn áp dụng. Rủi ro trung bình, công bố tiêu chuẩn và tự đánh giá hoặc tổ chức chứng nhận được công nhận đánh giá hợp quy. Rủi ro cao, công bố tiêu chuẩn và chứng nhận hợp quy bởi tổ chức được chỉ định.

Điểm nhấn của luật là bổ sung quy định tạo thuận lợi cho hàng hóa nhập khẩu có mức độ rủi ro trung bình.

Cụ thể, được công bố hợp quy dựa trên kết quả tự đánh giá của tổ chức, cá nhân hoặc chứng nhận hợp quy của tổ chức chứng nhận được công nhận theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

Không phải công bố hợp quy lại đối với lô hàng cùng loại, trừ khi có thay đổi về quy chuẩn kỹ thuật, đặc tính sản phẩm hoặc cảnh báo từ cơ quan có thẩm quyền.

Xác lập khung pháp lý về hạ tầng chất lượng quốc gia

Luật dành một điều riêng quy định việc ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong quản lý chất lượng. Bao gồm, hồ sơ số sản phẩm, nhận diện số; hệ thống truy xuất nguồn gốc, phản hồi người tiêu dùng; giám sát chất lượng qua nền tảng số, hệ thống dữ liệu tích hợp. Những quy định này góp phần hiện đại hóa quản lý chất lượng trên toàn chuỗi cung ứng.

Lần đầu tiên luật xác lập khung pháp lý về hạ tầng chất lượng quốc gia (NQI) là hệ sinh thái bao gồm tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp (bao gồm cả công nhận), kiểm tra và xây dựng chính sách. Đây là hạ tầng kỹ thuật của quốc gia nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong nước, đẩy mạnh sự thừa nhận của quốc tế để hỗ trợ doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ toàn cầu.

Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng NQI trên nền tảng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, bảo đảm kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan kiểm tra chất lượng, hải quan, truy xuất nguồn gốc, phản ánh người tiêu dùng và cảnh báo quốc tế để nâng cao năng lực giám sát và cảnh báo sớm.

Luật cũng yêu cầu thiết lập hệ thống giám sát chất lượng sản phẩm, hàng hóa cấp quốc gia có chức năng là kết nối dữ liệu giữa các cơ quan quản lý; thu thập, phân tích phản ánh, cảnh báo từ người tiêu dùng; hỗ trợ hậu kiểm và xử lý rủi ro chất lượng.

“Đây là bước tiến giúp quản lý chất lượng dựa trên dữ liệu, phân tích và công nghệ số. Việc ứng dụng công nghệ số, phân tích dữ liệu giúp nâng cao hiệu quả hậu kiểm, giảm chi phí tuân thủ và tăng tính minh bạch trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa”, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ nhấn mạnh.

Luật làm rõ trách nhiệm của người bán và trách nhiệm của chủ quản nền tảng số trung gian phục vụ giao dịch điện tử về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, nhằm quản lý chất lượng hàng hóa kinh doanh trên nền tảng số phục vụ giao dịch điện tử.

Chủ quản nền tảng số trung gian phải có biện pháp kiểm tra, xử lý đối với hàng hoá vi phạm pháp luật về chất lượng; thiết lập và vận hành hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, khiếu nại của người tiêu dùng liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá.

Các chế tài xử lý vi phạm hành chính trong luật được quy định theo hướng răn đe mạnh hơn, tuỳ mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính, thu hồi giấy phép hoặc hình sự; công khai vi phạm trên nền tảng số quốc gia.

Đồng thời, quy định rõ hành vi nghiêm cấm như thông tin, quảng cáo sai sự thật hoặc có hành vi gian dối về chất lượng, nguồn gốc và xuất xứ sản phẩm, hàng hoá; kinh doanh sản phẩm, hàng hoá không phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ - đặc biệt trên môi trường số.

Nội dung mới nhằm thể chế hoá chủ trương hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân trong hội nhập quốc tế được quy định trong luật đó là, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu như hỗ trợ tư vấn, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn quốc tế; thử nghiệm, giám định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hoá theo tiêu chuẩn quốc tế; hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất chất lượng, xây dựng thương hiệu để đáp ứng yêu cầu thị trường toàn cầu.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ khẳng định, “Luật được thông qua tại Kỳ họp thứ Chín là công cụ pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nâng cao hiệu quả hậu kiểm và tính minh bạch trong quản lý nhà nước; giảm gánh nặng tuân thủ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thúc đẩy phát triển kinh tế số, thương mại điện tử và thực thi hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế.”

Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2026.

Anh Thảo