Thời sự Quốc hội

Đã là tình trạng khẩn cấp, sao phải chờ trình tự, thủ tục?

Đan Thanh 23/06/2025 16:45

Dự thảo Luật Tình trạng khẩn cấp quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp. Các đại biểu Quốc hội đề nghị, đã là tình trạng khẩn cấp thì trình tự, thủ tục phải rút gọn, “không thể chờ thủ tục”.

Tiếp tục Kỳ họp thứ Chín, chiều 23/6, Quốc hội thảo luận ở Tổ về: Dự án Luật Tình trạng khẩn cấp; Dự án Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và Dự án Luật Dẫn độ.

to01.jpg
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan tham dự phiên thảo luận tại Tổ 14. Ảnh: Phạm Thắng

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan tham dự phiên thảo luận tại Tổ 14, gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh: Đồng Tháp, Bắc Giang và Khánh Hòa.

Thủ tục cần đơn giản, rút gọn

Cho ý kiến vào Dự án Luật Tình trạng khẩn cấp, các đại biểu cơ bản tán thành sự cần thiết ban hành luật này, theo Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại.

Thống nhất nội dung dự thảo Luật, song ĐBQH Lê Xuân Thân (Khánh Hòa) đề nghị, Ban soạn thảo cần nghiên cứu thêm một số nội dung.

to02.jpg
Các đại biểu tham gia thảo luận ở Tổ 14 chiều 23/6. Ảnh: Phạm Thắng

Tại Điều 7 dự thảo Luật quy định về thời hạn, thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án hành chính, dân sự trong tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, nội dung này đã được các luật chuyên ngành quy định, trong đó có Luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hình chính. Do đó, đạo biểu Lê Xuân Thân đề nghị, dự thảo Luật không cần quy định nội dung này.

Điều 9 dự thảo Luật quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp.

Theo đó: Căn cứ diễn biến thảm họa, dịch bệnh, tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và trên cơ sở đề nghị của các bộ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban bố tình trạng khẩn cấp, trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp ngay thì đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.

Căn cứ vào Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.

Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.

Z72_2974 - Lê Xuân Thân - Khánh Hòa
ĐBQH Lê Xuân Thân (Khánh Hòa) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Đại biểu Lê Xuân Thân cho rằng, đã là tình trạng khẩn cấp mà đi theo tình tự này “sẽ bị chậm”. Do đó, Ban soạn thảo cần cân nhắc lại quy định này.

Cũng theo đại biểu, toàn bộ cấu trúc của Điều 9 đều tùy thuộc vào chủ thể ban bố tình trạng khẩn cấp, đó là phải theo đề nghị của ai?

Đại biểu dẫn Điều 88 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: “…căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.

Như vậy, Hiến pháp quy định quyền chủ thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Song, Điều 9 dự thảo Luật lại chưa nêu được chủ thể Quốc hội.

Đại biểu Lê Xuân Thân nhấn mạnh: cần viết lại Điều 9 cho đơn giản, đủ chủ thể, bao gồm chủ thể Quốc hội.

Z72_3108 - Trần Văn Lâm - Bắc Giang
ĐBQH Trần Văn Lâm (Bắc Giang) phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng

Chia sẻ với ý kiến trên, ĐBQH Trần Văn Lâm (Bắc Giang) cho rằng, tình trạng khẩn cấp tức là tình hình đã cấp bách. Trong khi đó, theo dự thảo, “trong trường hợp Ủy ban Thường vụ không thể họp thì đề nghị Chủ tịch nước công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”, tức là còn phải họp, mà thẩm quyền vẫn là Chủ tịch nước.

“Tại sao không quy định luôn đã là tình trạng khẩn cấp thì thẩm quyền công bố tình trạng khẩn cấp là Chủ tịch nước luôn, đỡ phải đặt ra các tình huống?”, đại biểu Trần Văn Lâm đặt vấn đề.

ĐBQH Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cũng tán thành khi cho rằng, trình tự, thủ tục cần phải rút gọn, cụ thể, chứ không thể chờ Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị lên bộ, xong bộ đề nghị lên Thủ tướng, Thủ tướng đề nghị lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình lên Chủ tịch nước sẽ chậm.

“Cần rút gọn để bớt thủ tục. Đã là tình trạng khẩn cấp thì không thể chờ trình tự, thủ tục”, đại biểu Phạm Văn Hòa nhấn mạnh.

Bổ sung quy định cấm phát tán, tuyên truyền thông tin sai sự thật

Dự thảo Luật quy định 6 hành vi bị nghiêm cấm trong tình trạng khẩn cấp (Điều 5).

ĐBQH Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hòa) đề xuất, dự thảo Luật cần bổ sung thêm hành vi bị cấm. Đó là: Phát tán, tuyên truyền thông tin sai sự thật gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trong tình trạng khẩn cấp.

Bởi lẽ, theo đại biểu, trong tình trạng khẩn cấp, thông tin có vai trò vô cùng quan trọng. Nếu phát tán, tuyên truyền thông tin sai lệch có thể gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng, làm phức tạp thêm tình hình, gây hoang mang dư luận, mất ổn định và cản trở công tác ứng phó. Do vậy, cần có quy định về hành vi bị cấm này để xử lý thích đáng.

Z72_3075 - Đỗ Ngọc Thịnh - Khánh Hòa
ĐBQH Đỗ Ngọc Thịnh (Khánh Hòa) phát biểu. Ảnh; Phạm Thắng

Cũng liên quan nội dung tại Điều 5 dự thảo Luật, đại biểu Trần Văn Lâm cho rằng, quy định hành vi bị cấm là “không kịp thời hoàn trả tài sản của tổ chức, cá nhân bị trưng dụng”, “không kịp thời thực hiện các biện pháp xử lý sự cố khẩn cấp hoặc xử lý không đúng quy định gây hậu quả” sẽ gây khó khăn cho cơ quan thực thi.

Bởi lẽ, "trong tình trạng khẩn cấp, yêu cầu về sự kịp thời là khó, vì thiên tai, địch hoạ xảy ra, còn bao nhiêu việc phải giải quyết", đại biểu phân tích.

Ngoài ra, đại biểu Trần Văn Lâm cũng đề nghị, quy định về hợp tác quốc tế (Điều 8 dự thảo Luật) cần nghiên cứu để mở rộng hơn nữa.

Trong tình trạng khẩn cấp, việc hợp tác quốc tế là rất cần thiết. Điều 8 dự thảo Luật quy định hợp tác quốc tế về tình trạng khẩn cấp như sau:

Trường hợp xảy ra thảm họa, dịch bệnh phức tạp, nguồn lực trong nước không đủ để ứng phó, khắc phục và đã ban bố tình trạng khẩn cấp về thảm họa, dịch bệnh, Thủ tướng Chính phủ kêu gọi các quốc gia, các tổ chức quốc tế, cá nhân hỗ trợ nguồn lực để phòng ngừa, ứng phó và phối hợp triển khai các biện pháp khắc phục hậu quả.

Hợp tác quốc tế về tình trạng khẩn cấp phải bảo đảm nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ pháp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và thỏa thuận quốc tế có liên quan.

Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Văn Lâm, quy định hợp tác quốc tế để huy động nguồn lực là “đơn giản quá”, bởi đây chỉ là một phần nội dung. “Khi tình trạng khẩn cấp xảy ra thì nội lực mới là yếu tố quyết định, chủ chốt, quan trọng nhất”.

“Khi tình trạng khẩn cấp xảy ra liên vùng, liên quốc gia, đòi hỏi có sự hợp tác liên quốc gia, toàn cầu. Hiện nay, các vấn đề an ninh phi truyền thống là vấn đề toàn cầu nên cần có sự hợp tác quốc tế. Do đó, Điều 8 dự thảo Luật cần nghiên cứu để mở hơn nữa, bao trùm hơn nữa các tình huống”, đại biểu đề nghị.

Đan Thanh