Nhà báo Đỗ Đức Dục: Một tấm lòng tha thiết yêu nghề
Trong làng báo Việt Nam, Đỗ Đức Dục (1915 - 1993) là một tên tuổi lớn, một tài năng hiếm có. Với những cống hiến xuất sắc trên lĩnh vực báo chí và các hoạt động cách mạng khác, ông đã được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Làm báo để “làm chính trị”
Đầu năm 1942, sau một năm báo Thanh Nghị ra đời thì Đỗ Đức Dục mới bước vào đời báo chuyên nghiệp. Đó là khi ông nhận được sự tín nhiệm của các nhà báo đàn anh, các đồng nghiệp trong Ban biên tập báo Thanh Nghị, đứng đầu là ông Vũ Đình Hòe làm Thư ký tòa soạn. Đó là một quyết định quan trọng, ảnh hưởng đến cả cuộc đời cầm bút và sự nghiệp chính trị của Đỗ Đức Dục. Ông từng kể lại chuyện này trong hồi ký “Đổi đời”:
“Tôi ý thức được rằng viết báo, làm báo mới thật sự là phương tiện hiệu quả để hoạt động chính trị “làm chính trị”. Về điểm này, tôi vẫn tự cho là mang “dòng máu làm báo” trong người vì tôi đã sớm có ý hướng làm báo. Ngay từ lúc học lớp nhất trường sơ học (tương đương với lớp năm, lớp sáu trường phổ thông ngày nay), tôi đã làm báo tay với mấy bạn cùng bàn (tờ báo tay bằng tiếng Pháp, lấy tên là Le Criard-Kẻ gào thét). Đến khi học năm thứ ba, thứ tư trường Bưởi, tôi lại cùng một số bạn đồng khóa ra tờ báo tay lấy tên là Thanh niên. Thật ra làm báo tay như vậy dưới thời Pháp thuộc cũng là một việc liều lĩnh. Nếu nhà trường biết có thể bị đuổi học mà không chừng có khi phải vào tù…”.

Đỗ Đức Dục sinh năm 1915 trong một gia đình Nho học tại làng Xuân Tảo, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, Hà Đông, nay thuộc quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Sau khi đỗ Cử nhân Luật loại ưu năm 1938, ông làm nghề dạy học, tích cực tham gia truyền bá chữ quốc ngữ, viết báo tiến bộ, dịch văn học.
Khi được bầu làm đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Đông Khóa I, ông được tín nhiệm đề cử làm thành viên Ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp 1946), đăng đàn diễn thuyết, viết báo để giải thích Hiến pháp, tuyên truyền xây dựng ý thức thượng tôn pháp luật của Nhân dân.
Ở báo Thanh Nghị, ông viết nhiều lĩnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, nhất là xã hội và văn hóa, lược thuật tin tức thế giới tại chuyên mục “Việc quốc tế” với bút danh Đ.Đ.D., bên cạnh viết và dịch một số tác phẩm văn học hay sáng tác một số truyện ngắn và thơ, sử dụng đồng thời nhiều bút danh khác nhau: Như Hà, Trọng Đức, Tảo Hoài… Những lao động gắn liền với ngòi bút cho thấy sức đọc, sức viết rất ấn tượng của người thanh niên trí thức họ Đỗ. Ông kể: “Tôi đặc biệt chú ý đến các vấn đề thời sự, chính trị và qua những bài xã luận, nhằm cổ động lòng yêu nước của thanh niên, sự quan tâm của họ đến vận mệnh của đất nước, nhất là từ sau khi quân Nhật đặt gót lên Đông Dương”.
Thời gian từ 1941 - 1945, Đỗ Đức Dục có hơn 80 bài đăng trên báo Thanh Nghị và từ 1945 - 1988, có khoảng 330 bài đăng trên báo Độc Lập. Những bài báo của ông giành được sự quan tâm của người đọc là những bài nghị luận, có tính bút chiến cao, những phóng sự, phê bình văn học dồi dào tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật. Từ bài “Án Tết” đăng trên báo Thanh Nghị tháng 3/1942 đến các bài “Giải thích bản Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp” (Thanh Nghị, 1946); “Ba năm dân chủ” (Độc Lập, số 2, 1948); “Mặt trận nhân dân trong cách mạng dân chủ mới Việt Nam” (1949); “Phải làm gì trong giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công” (Độc Lập, số 23, 1950); “Hai tác dụng lớn của việc thực hiện chính sách ruộng đất” (1953); “Chính sách khôi phục kinh tế (1955)… nhà báo Đỗ Đức Dục với những thông tin cập nhật, luận giải sâu sắc, đã làm cho Nhân dân hiểu rõ tình hình và tích cực tham gia cách mạng, kháng chiến.
Sau năm 1954, Đỗ Đức Dục tiếp tục thu hút sự chú ý với các bài viết liên quan đến công việc thường xuyên của chính giới báo chí như “Đẩy mạnh việc nâng cao kiến thức phổ thông cho quần chúng” hay “Kiên quyết dựa vào lực lượng quần chúng để xây dựng nhà văn hóa” (Tập san Văn hóa, Số 2, phát hành tháng 4/1958), “Chính sách khôi phục kinh tế, Người trí thức trong cuộc thống nhất văn hóa tư tưởng giữa hai miền” (Độc Lập, số 1088, 1976)…
Giám đốc trường đào tạo báo chí đầu tiên ở nước ta
Ở phương diện đào tạo, xây dựng Hội Nhà báo Việt Nam, Đỗ Đức Dục là một trong những người có công đầu. Ông là Giám đốc Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1950, chủ bút báo Độc Lập Đỗ Đức Dục được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam. Trước 1950, ông từng có 5 năm liền giữ vai trò Phó Chủ tịch Đoàn Báo chí Việt Nam sát cánh cùng Chủ tịch Đoàn là nhà báo Nguyễn Tường Phượng.
Nhà báo - nhà quản lý Đỗ Đức Dục cùng các học trò đã nỗ lực để làm nên thương hiệu ngôi trường đào tạo báo chí đầu tiên ở nước ta trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn cực kỳ khó khăn. Sau này, học viên của trường hầu hết đều trưởng thành, là những cây bút chủ lực và lãnh đạo của nhiều cơ quan báo chí lớn.

Nhớ lại mấy tháng ngắn ngủi được cấp trên cử đi học nghề báo tại thôn Bờ Rạ, Đại Từ, Thái Nguyên, nhà báo Lý Thị Trung, một trong hai học viên trẻ nhất trong số 60 học viên của lớp báo chí Huỳnh Thúc Kháng ngày đó, kể: “Thầy Đỗ Đức Dục vừa làm quản lý, vừa lên lớp truyền dạy nghề cho chúng tôi. Cách dạy của ông rất thuyết phục, thẳng thắn. Bởi đó là một người thầy có vốn văn hóa uyên thâm, đã tham gia viết báo từ rất sớm và có nhiều kinh nghiệm về nghề do đã từng làm báo nhiều năm trước và sau cách mạng”.
Nhà báo Mai Thanh Hải, một học viên khác viết trên Tạp chí Xưa & Nay, số tháng 6/1998: “Cho đến hôm nay, học viên chúng tôi vẫn kính trọng ông Đỗ Đức Dục như một nhà văn hóa, một nhà báo tiền bối và với chúng tôi, ông là bậc thầy. Bài giảng của ông đã gây sóng gió ngay từ ngày đầu tiên của lớp học, dù có nhiều ý kiến đối lập, chúng tôi vẫn thấy quả là phải có dũng khí mới nêu những vấn đề gai góc như thế ra trước giảng đường các nhà báo chúng tôi (hầu hết học viên chúng tôi trước đó đều đã làm báo hoặc đã viết khá nhiều bài báo)...”.
Xin dẫn một đoạn trích trong diễn văn bế mạc lớp viết báo kháng chiến do Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Giám đốc Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng Đỗ Đức Dục đọc ngày 6/7/1949 làm kết cho bài viết này để tưởng nhớ, tri ân một nhà báo cách mạng tiền bối:
“... Nghề viết báo đòi hỏi hơn đâu hết sự luôn luôn tiến bộ, luôn luôn kịp thời. Muộn một ngày là đã trở nên lạc hậu, chậm một bước là dễ dàng bị đào thải. Ở nghề nào còn có thể giấu giếm được phần nào sự vụng về, dung túng được phần nào sự thấp kém, chứ ở nghề viết báo thì vụng về thấp kém nó bầy ngay ra trước mắt mọi người. Và người viết báo phải luôn luôn chịu đựng muôn nghìn phê bình khe khắt của dư luận, của độc giả. Nếu không có một tấm lòng tha thiết yêu nghề thì nhất định không đủ can đảm mà thu nhận những lời phê bình của đủ các hạng độc giả phức tạp ở bốn phương, không đủ nhẫn nại mà luôn luôn học tập cầu tiến được...” .