Văn hóa

Bác Hồ, nhà báo mẫu mực về sử dụng và làm giàu tiếng Việt

PGS. TS. Đỗ Chí Nghĩa 19/06/2025 18:48

Bác Hồ là người sáng lập nền Báo chí Cách mạng Việt Nam. Với Bác, báo chí là công cụ cách mạng nhưng cũng là phương tiện để làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt. Người làm báo phải có ý thức mẫu mực trong sử dụng tiếng Việt, tránh “khoe chữ”, viết “cho oai” và đặc biệt phải viết sao cho dễ hiểu, dễ làm theo.

“Viết cho đúng trình độ người xem”

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở các nhà báo: “Mình viết ra cốt để giáo dục, cổ động; nếu người xem không nhớ được, không hiểu được là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ người xem”.

Tính đại chúng, dễ hiểu được Bác xác định như một điều kiện quyết định làm nên hiệu quả báo chí. Nó phù hợp với phương thức làm báo hiện đại, đồng thời cũng phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. “Viết cho đúng trình độ người xem”, để người xem “hiểu được, nhớ được”, đó là mục tiêu của báo chí cách mạng trong việc “giáo dục, cổ động và tuyên truyền” cách mạng. Nếu “người xem mà không nhớ được, không hiểu được là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích”. Những mệnh đề giải thích ngắn gọn nhưng sắc nét, rõ ràng, cho thấy tư duy báo chí Hồ Chí Minh luôn nhất quán một nguyên tắc: gắn với công chúng và vì công chúng.

ct-hcm1.jpg
Tại Đại hội lần thứ III những người viết báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng, cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén… (8/9/1962). Ảnh tư liệu

Là một nhà báo có bề dày hoạt động quốc tế, Người yêu cầu “mỗi nhà báo phải biết ít nhất một ngoại ngữ” để học hỏi kinh nghiệm bè bạn. Nhưng Người nói rất nghiêm khắc với “bệnh hay nói chữ”, mượn tiếng nước ngoài vô lối: “Các ông viết báo nhà mình hay dùng cưỡng quá. Những chữ tiếng ta có thì không dùng, lại dùng cho được chữ kia. Cán bộ cũng hay dùng chữ lắm, dùng lung tung, nhiều khi không đúng”… “Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh từ lạ, nói hoặc viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng dặc thì quần chúng sao hiểu được?”. Người nêu lên những ví dụ cụ thể của bệnh “hay nói chữ”: “Người ốm” thì các chú gọi là “bệnh nhân”. Làm “bệnh nhân”, thì oai hơn “người ốm” phải không? “Giúp đỡ” thì các chú không thích bằng “tương trợ”. Hình như các chú “tương trợ” Bác thì quan trọng hơn giúp đỡ Bác.

Vì sao không nói “đường to” mà lại nói “đại lộ”, không nói “người bắn giỏi” lại nói “xạ thủ”, không nói “hát múa” lại nói “ca vũ”?”.

Khi phê phán thói dùng chữ cầu kỳ, chuộng ngoại, Bác dùng cách nói nhẹ nhàng hài hước mà thấm thía. Những từ Hán Việt và thuần Việt cùng diễn tả nội dung được đặt cạnh nhau đã làm nên thế so sánh thuyết phục: tình trạng dùng quá nhiều chữ Hán trên báo không phải vì tiếng ta không đủ sức diễn đạt mà chủ yếu do bệnh “hay nói chữ” mà ra. “Ba tháng thì không nói ba tháng, lại nói “tam cá nguyệt”. Đánh vào sâu thì nói “tung thâm”, xem xét thì nói “quan sát”...”

Báo chí là hoạt động sáng tạo mang tính tập thể có liên quan đến nhiều khâu công việc. Cho nên, có trường hợp vì người viết “chuộng ngoại” dẫn đến những lỗi sai đến vô lý: “Người viết bài lại thích dùng chữ như gọi người đánh cá là ngư dân, rồi người in lại thiếu cái dấu ở chữ “ư”, hóa ra ngu dân”. Đấy chỉ là một ví dụ để cho thấy rằng việc in cũng phải làm cho tốt”.

Phê phán bệnh nói chữ, Hồ Chí Minh xuất phát từ yêu cầu về tính đại chúng, dễ hiểu của báo chí. Nhà báo viết bài quan trọng là để công chúng hiểu, từ đó tạo ra chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động: “Báo chí ta không phải chỉ để cho ít người xem mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền, giải thích đường lối của Đảng và Chính phủ cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”. Người yêu cầu những người làm báo “phải học cách nói cách viết của quần chúng”. “Viết rồi phải đọc đi, đọc lại. Thấy chỗ nào thừa, câu chữ nào thừa thì bỏ bớt đi”. “Phải nhờ một số đồng chí công, nông, binh đọc lại. Chỗ nào ngúc ngắc, chỗ nào khó hiểu, họ nói ra cho thì phải chữa lại”.

Đề cao tiếng Việt và dùng tiếng Việt

Có thể nhận thấy một phẩm chất đặc biệt trong tư duy Hồ Chí Minh: luôn có sự nhìn nhận tổng thể, hài hòa. Đề cao tiếng Việt, coi việc dùng tiếng Việt như một biểu hiện tinh thần cách mạng, tinh thần dân tộc, một quyền lợi của người dân một nước độc lập, Người nhận xét: “Tiếng Việt là một thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không dùng, lại đi mượn nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao”?

gui-bao-quan-du-kich-1.jpg
Trích thư Bác Hồ gửi báo Quân du kích. Nguồn: qdnd.vn

“Tiếng Việt của ta rất phong phú, ta phải làm giàu thêm cho tiếng Việt của ta nhưng không nên vay mượn lu bù để lòe thiên hạ. Ngày xưa, ta còn bị thực dân cai trị, có những người không thạo tiếng mẹ đẻ, nói chẳng ai hiểu gì lại cho mình là trí thức cao. Bây giờ ta độc lập rồi, đừng nên bắt chước thói xấu của thời nô lệ. Ta là cán bộ cách mạng, ta nói và viết cho quần chúng nhân dân mà mọi người không hiểu ta nói gì, sao gọi là cán bộ cách mạng được”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ý thức nói và viết cho quần chúng hiểu, và hơn thế, nói hay, viết hay bằng tiếng Việt là thể hiện tư chất người cách mạng. Tuy nhiên, Người không tuyệt đối hóa đến mức cực đoan. Người coi trọng cả những từ Hán đã được Việt hóa trở nên quen thuộc trong lời ăn, tiếng nói hàng ngày, những từ ngữ mà dùng tiếng Việt thuần tuý sẽ không lột tả hết được ý nghĩa:

“Cố nhiên, có những chữ không thể dịch được thì ta phải mượn chữ nước ngoài. Thí dụ, những từ kinh tế, chính trị... thì ta phải dùng. Hoặc có những chữ nếu dịch ra thì mất cả ý nghĩa, như chữ “độc lập”. Nếu “Việt Nam độc lập” mà gọi là “Việt Nam đứng một” thì không thể nghe được”.

“Tiếng ta còn thiếu nên nhiều lúc phải mượn tiếng nước khác, nhất là tiếng Trung Quốc. Nhưng phải có chừng mực. Tiếng nào ta sẵn có thì dùng riêng ta”.

Vẫn là những từ gốc cũ nhưng qua cách nói, cách viết của Bác, tiếng Việt trở nên đa thanh, đa nghĩa, giàu sức biểu cảm. Những từ ngữ mang đậm tinh thần quốc tế vô sản cao cả: “các dân tộc anh em”, “các đảng bạn”, “các nước bầu bạn”...; những cụm từ biểu đạt nội dung mới của chế độ mới: “con người mình vì mọi người”, “đồng bào công giáo kính Chúa, yêu nước”, “chiến sĩ miền Nam thành đồng Tổ quốc”...; đến những thói xấu cần loại bỏ: “bệnh quan liêu”, “tệ lãng phí”, “nạn tham nhũng”, “thói mệnh lệnh”, “óc địa phương”… GS. Nguyễn Lai từng nhận xét: “Tiếng Việt cung cấp những phương tiện phong phú để Hồ Chí Minh diễn đạt tư tưởng, còn Người thì có công lớn là đã góp phần làm cho tiếng Việt thêm phong phú, nhất là thông qua những sáng tạo của mình về ngôn ngữ, diễn đạt. Người đóng góp cho sự phát triển ngôn ngữ, thậm chí ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ngôn ngữ”.

100 năm đã qua kể từ ngày báo Thanh Niên do Bác Hồ sáng lập ra số đầu tiên, nền báo chí cách mạng đã có những bước phát triển vượt bậc. Thế nhưng, những lời dạy của Người về giữ gìn, sử dụng và làm giàu Tiếng Việt vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Một lòng vì đất nước, vì dân tộc không chỉ trên trách nhiệm thông tin mà còn cả phương diện sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt, báo chí cách mạng sẽ luôn thuộc về Nhân dân, là một phần không thể thiếu của lịch sử dân tộc, như cách Bác Hồ đã luôn mẫu mực nêu gương trong từng bài viết của mình!


Tài liệu tham khảo

  1. Hồ Chí Minh - Về vấn đề báo chí, Tài liệu tham khảo, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, 1995
  2. Hồ Chí Minh - Tác giả, tác phẩm và nghệ thuật ngôn từ, NXB Giáo dục, 1997

PGS. TS. Đỗ Chí Nghĩa