"Cầu nối" lan tỏa chính sách bảo hiểm xã hội
Trong những năm qua, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2025, ngành bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực trong việc phát triển người tham gia và bảo đảm quyền lợi thụ hưởng các chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Những con số tăng trưởng mạnh mẽ không chỉ là kết quả của chủ trương, chính sách đúng đắn, mà còn là minh chứng rõ nét cho hiệu quả của công tác truyền thông, trong đó báo chí đóng vai trò là lực lượng tiên phong, đồng hành.
Truyền thông chủ động, hiệu quả và đa dạng
5 tháng đầu năm 2025, ngành BHXH Việt Nam ghi nhận nhiều kết quả tích cực và đầy khích lệ. Tính đến hết tháng 5/2025, số người tham gia BHXH đạt 19,56 triệu người, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, BHXH bắt buộc đạt 17,43 triệu người (tăng 8,9%), BHXH tự nguyện đạt 2,13 triệu người (tăng mạnh 46,23%). Số người tham gia BHYT đạt 93,56 triệu người (tăng 3,24%) và BHTN là 15,7 triệu người (tăng 9,86%).

Cùng với đó, công tác giải quyết các chế độ, chính sách được thực hiện kịp thời, đúng quy định, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia. Cụ thể, khoảng 46.554 người được hưởng chế độ BHXH hàng tháng (tăng 53,9%); 484.994 người hưởng BHXH một lần (giảm 13,33%); gần 3,6 triệu lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe; 271.997 người hưởng trợ cấp thất nghiệp và 6.094 người hưởng hỗ trợ học nghề.
Đáng chú ý, số người được giải quyết hưởng lương hưu tăng vọt với 27.255 trường hợp trong 4 tháng đầu năm, tăng 95,47% so với cùng kỳ 2024, chủ yếu do tác động từ Nghị định số 177/2024/NĐ-CP Về chính sách tinh giản biên chế và Nghị định số 178/2024/NĐ-CP Về chính sách nghỉ hưu sớm đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong khu vực nhà nước.
Trong bối cảnh đó, sự chủ động của ngành BHXH trong rà soát quy trình nghiệp vụ, điều chỉnh phần mềm quản lý và tăng cường truyền thông chính sách đã giúp bảo đảm quyền lợi cho người dân một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Theo lãnh đạo BHXH Việt Nam, những con số biết nói ấy không chỉ thể hiện sự vào cuộc quyết liệt của toàn hệ thống BHXH mà còn là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của công tác truyền thông, đặc biệt là vai trò dẫn dắt, phản ánh và lan tỏa của báo chí.
Với sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành BHXH và hệ thống báo chí, thông tin chính sách được lan tỏa một cách sâu rộng, đa kênh, đa nền tảng và đến đúng đối tượng. Trong năm 2024, toàn ngành BHXH đã phối hợp với các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đăng tải gần 32.000 tin, bài, phóng sự, từ đó nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi và tạo dựng niềm tin xã hội vào chính sách an sinh. Các sản phẩm truyền thông được triển khai đa dạng, sinh động, từ bài viết phản ánh, điều tra chuyên sâu đến các clip, infographic, talkshow truyền hình, mạng xã hội...

Riêng trong tháng 5 - Tháng BHXH toàn dân năm 2025, truyền thông được tổ chức quy mô lớn trên toàn quốc. Hàng trăm lễ ra quân tuyên truyền diễn ra ở cấp tỉnh và huyện, với sự tham gia đồng bộ của các tổ chức đoàn thể, cơ quan thông tin đại chúng và cán bộ BHXH cơ sở. Trên môi trường số, các tỉnh đăng tải 2.870 nội dung truyền thông trên Cổng thông tin điện tử BHXH địa phương, chia sẻ khoảng 80.000 sản phẩm truyền thông trên nền tảng mạng xã hội.
Tính chung 5 tháng đầu năm 2025, cả nước tổ chức hơn 4.360 hội nghị truyền thông với gần 240.000 lượt người tham dự; phát 420.160 lượt tin qua loa truyền thanh; đăng tải hơn 4.400 tin, bài báo chí và chia sẻ 333.400 sản phẩm truyền thông số.
Thay đổi nhận thức, lan tỏa thông tin tích cực
Lãnh đạo BHXH Việt Nam khẳng định, để đạt được thành công, ngành BHXH luôn đặt công tác thông tin, truyền thông lên hàng đầu. Đặc biệt là sự đồng hành của các cơ quan báo chí - không chỉ đưa tin mà còn hỗ trợ người dân, doanh nghiệp hiểu và thực hiện chính sách hiệu quả.
Một trong những hiệu ứng rõ rệt của công tác truyền thông là sự thay đổi nhận thức và hành vi của người dân. Việc số người hưởng BHXH một lần giảm hơn 91.000 người so với cùng kỳ năm 2024 (tương đương giảm 18,8%) là một minh chứng rõ ràng. Người lao động đã nhận thức được lợi ích lâu dài khi tham gia đủ 15 năm BHXH để được hưởng lương hưu, từ đó có quyết định đúng đắn, phù hợp với tương lai của chính mình và gia đình.

Theo lãnh đạo Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp), chính sách BHXH, BHYT cần được truyền thông đúng hướng để khơi dậy ý thức chủ động tham gia của người dân. Khi thông tin được truyền tải đúng lúc, đúng cách và đúng đối tượng, không chỉ cung cấp kiến thức pháp luật mà còn góp phần định hình nhận thức xã hội, tạo dựng niềm tin vào thể chế và chính sách của Nhà nước.
Ngoài vai trò tuyên truyền, báo chí còn là "kênh phản hồi chính sách" đầy hiệu quả. Những bài viết điều tra, phản ánh kịp thời tình trạng trốn đóng, nợ đóng, chiếm đoạt BHXH đã giúp cơ quan chức năng siết chặt kỷ cương, bảo vệ quyền lợi người lao động.
Đại diện Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, nhiều vấn đề bức xúc như bất cập trong quy định khởi kiện của tổ chức công đoàn đối với doanh nghiệp nợ BHXH cần được báo chí vào cuộc mạnh mẽ hơn. Không chỉ phản ánh, báo chí còn có trách nhiệm khơi gợi, kiến nghị giải pháp từ thực tiễn, góp phần thúc đẩy hoàn thiện thể chế, bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Đứng trước yêu cầu mới, báo chí cần đổi mới nội dung và hình thức truyền thông. Những tác phẩm về BHXH, BHYT không chỉ đúng luật, đúng chính sách mà còn phải dễ hiểu, hấp dẫn, gần gũi với từng nhóm đối tượng: Người lao động, người cao tuổi, thanh niên mới vào thị trường lao động, người nghèo, dân tộc thiểu số...
Nâng cao chất lượng, khẳng định vị thế
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác truyền thông chính sách về BHXH, BHYT, các chuyên gia và nhà quản lý cho rằng, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ nâng cao năng lực đến hiện đại hóa phương tiện, phương pháp truyền thông.
Trước hết, cần chuyên môn hóa đội ngũ phóng viên, biên tập viên phụ trách lĩnh vực an sinh xã hội. Đây là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thông tin đưa ra không chỉ chính xác về mặt pháp lý mà còn gần gũi, dễ hiểu với bạn đọc đại chúng. Những người làm báo trong lĩnh vực này cần được đào tạo bài bản về kiến thức chính sách, kỹ năng phân tích luật pháp và có khả năng phát hiện, khai thác vấn đề từ thực tiễn.

Thứ hai, xây dựng mạng lưới cộng tác viên rộng khắp là chuyên gia, nhà nghiên cứu, cán bộ ngành BHXH ở cả Trung ương và địa phương. Họ không chỉ cung cấp thông tin đầu vào có tính chuyên sâu mà còn tham gia phản biện, lý giải chính sách một cách có hệ thống. Sự hiện diện của các "chuyên gia đồng hành" trong các chuyên mục báo chí sẽ gia tăng mức độ tin cậy, thuyết phục và chiều sâu học thuật cho từng tác phẩm truyền thông.
Thứ ba, đầu tư phát triển các chuyên trang, chuyên mục chuyên sâu, dài hơi, đa nền tảng để tuyên truyền chính sách. Không chỉ dừng lại ở việc "phát tin", báo chí cần xây dựng những loạt bài chuyên đề, tuyến bài phản ánh đa chiều và theo dõi lâu dài những vấn đề nổi cộm trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT. Bên cạnh đó, cần ứng dụng chuyển đổi số trong biên tập, lưu trữ và phân phối nội dung - bảo đảm thông tin luôn sẵn có, dễ tra cứu và đa dạng hình thức tiếp cận.
Thứ tư, tăng cường các kênh tương tác hai chiều giữa báo chí - cơ quan thực thi chính sách - người dân. Việc mở rộng kênh tiếp nhận phản ánh, câu hỏi, băn khoăn từ người dân không chỉ giúp cơ quan báo chí tạo dựng lòng tin mà còn hỗ trợ cơ quan BHXH kịp thời giải đáp, điều chỉnh chính sách. Những chuyên mục "Hỏi - đáp chính sách", các buổi tọa đàm trực tuyến, livestream tương tác… đang chứng minh hiệu quả cao trong việc thu hẹp khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn cuộc sống.
Cuối cùng, tận dụng tối đa công nghệ số để lan tỏa thông điệp an sinh. Trí tuệ nhân tạo (AI), infographic, podcast, video ngắn, livestream… cần được tích hợp trong hệ sinh thái truyền thông về BHXH, BHYT. Từ đó, gia tăng hiệu quả tiếp cận, khơi dậy sự chủ động, tự giác tham gia chính sách từ phía người dân.
Theo các chuyên gia, truyền thông về BHXH, BHYT sẽ chỉ thật sự hiệu quả khi hội tụ được ba yếu tố: đúng - trúng - hấp dẫn. Đó là yêu cầu tất yếu, nhưng cũng là cơ hội để báo chí khẳng định vị thế và trách nhiệm của mình trong công cuộc phát triển hệ thống an sinh xã hội bền vững.