Báo chí trường chinh cùng dân tộcBài 2: Từ Hà Nội đến chiến khu
Chính quyền cách mạng vừa thành lập đã bước vào những năm trường kỳ kháng chiến gian khổ, ác liệt; ngoài mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, một mặt trận không tiếng súng nhưng có sức mạnh to lớn đối với sự nghiệp cách mạng dân tộc là tư tưởng - văn hóa, trong đó báo chí chính là lực lượng xung kích.
Xông pha vào cuộc chiến trường kỳ
Năm 1946, chính quyền nhân dân non trẻ đứng trước những thử thách nghiêm trọng, thù trong giặc ngoài mà hừng hực khí thế “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Sứ mệnh đặt lên vai báo chí và các nhà báo cũng tự khẳng định ý chí cách mạng của mình.
Theo nguyên Giám đốc Bảo tàng Báo chí Việt Nam Trần Thị Kim Hoa, năm 1946, mở đầu và kết thúc với hai sự kiện lớn: cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946) và toàn quốc kháng chiến (19/12/1946). Báo chí Việt Nam nỗ lực thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tuyên truyền và đấu tranh cách mạng, góp phần đem đến thành công của hai sự kiện trên.

Đơn cử, những bài viết, phóng sự, bài phỏng vấn và hình ảnh đăng trên Quốc hội - tờ nhật báo chỉ xuất bản trong kỳ tổng tuyển cử đầu tiên và tin tức cập nhật nóng hổi, hình ảnh sinh động về Quốc hội Khóa I trên số báo đặc biệt của tờ Vì nước xuất bản tháng 11/1946... “Tất cả cho hình dung rõ nét hơn không khí sôi nổi, tự hào của đất nước trong thời điểm này. Từ đây, Hà Nội và cả nước đã chính thức bước vào cuộc kháng chiến thần thánh”, bà Trần Thị Kim Hoa nhận định.
Vùng rừng núi hiểm trở thuộc Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang... được chọn làm căn cứ cách mạng gắn liền với hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ. Tiếp tục sứ mệnh tuyên truyền, đấu tranh cách mạng, những năm 1946 - 1954, nhiều cơ quan báo chí lớn như Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Việt Nam Thông tấn xã, Sự thật, Cứu quốc, Độc lập... kịp thời rút lên Việt Bắc. ATK Việt Bắc trở thành Thủ đô kháng chiến, cũng là Thủ đô của báo chí chiến khu. Giữa núi rừng hiểm trở, dưới làn súng bao vây của địch, báo chí như sợi chỉ đỏ kết nối thông tin, kết nối tinh thần chiến đấu quân dân.

Nhà báo, Đại tá Nguyễn Khắc Tiếp (1923 - 2025), nguyên Phó trưởng phòng Biên tập thời sự, báo Quân đội nhân dân, từng kể lại hoàn cảnh khó khăn trong công tác tuyên truyền thời bấy giờ, khi ông là phóng viên Việt Nam Thông tấn xã. Năm 1946, ông đồng hành với nhà báo Trần Kim Xuyến, lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam Thông tấn xã, đưa tin nhiều chiến dịch. “Phóng viên thời đó đi ra chiến trường phải đeo bao gạo, đeo súng, đeo cuốc… Cuộc kháng chiến gian khổ, thiếu thốn đủ đường nhưng công tác tuyên truyền luôn được coi là mặt trận quan trọng. Chúng tôi làm báo cẩn thận, tỉ mỉ, không được có bất kỳ sai sót nào. Mỗi số báo được chuyển đến các chiến sỹ ở mặt trận đều thể hiện tâm huyết của những người làm báo chiến trường”.
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”
Nhà báo Thái Duy (1926 - 2024), nguyên phóng viên báo Cứu quốc, cho đến cuối đời vẫn không quên những ngày làm báo gian khổ nhưng đầy tự hào. Báo chí lúc bấy giờ, một mặt giương cao ngọn cờ chiến đấu chống quân xâm lược, một mặt tiếp tục đồng hành với Đảng trên mặt trận chống “thế lực nội xâm”. Khi đó, Cứu quốc là tờ báo duy nhất xuất bản hàng ngày trong điều kiện hết sức khó khăn thiếu thốn, chỉ có hai trang. Năm 1950, Hội trưởng Hội những người viết báo Việt Nam, nhà báo Xuân Thủy chỉ đạo phóng viên báo Cứu quốc đưa tin sâu đậm về vụ tham nhũng nổi tiếng của Trần Dụ Châu, nguyên giám đốc Nha quân nhu, Bộ Quốc phòng. Đó là án tử hình đầu tiên về tội tham nhũng.
“Chúng tôi đã đưa chi tiết vụ việc Trần Dụ Châu tiêu xài xa hoa như thế nào, trong bối cảnh chiến sĩ và nhân dân vô cùng khổ cực. Lúc đó, Bác Hồ đã chủ trương rằng chính quyền và đoàn thể không bao giờ dung túng cán bộ nào tham nhũng, làm bậy, dù cán bộ đó ở cấp cao đến mức nào. Báo chí đã cất cao tiếng nói ấy, góp phần giữ vững niềm tin của quân và dân, cùng quân dân dốc sức cho kháng chiến”, nhà báo Thái Duy từng kể.

Trước tình hình kháng chiến ngày càng phức tạp, thông tin báo chí có tác động lớn trong cuộc “chiến tranh tâm lý”, lan tỏa đường lối chính trị, quân sự của Đảng. Bạn đọc, nhất là cán bộ, chiến sĩ quân đội mong báo chí bởi bám sát tình hình chiến dịch, thông tin chiến sự tại các chiến trường.
Nhìn nhận báo chí kháng chiến, trong đó có báo chí quân đội là một “binh chủng tuyên truyền đặc biệt”, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Trung tướng Trương Thiên Tô dẫn chứng câu chuyện làm báo tại chiến trường Điện Biên Phủ, tòa soạn báo hoạt động ngay cạnh chiến hào và sát cánh với bộ đội. 33 số báo Quân đội nhân dân khổ nhỏ được xuất bản trong 140 ngày đêm (từ 28/12/1953 - 16/5/1954) là một huyền tích của báo chí thời chiến. Những tờ báo được hoàn thành trực tiếp trên chiến trường, ngay khi khói lửa trận đánh chưa tan, kịp thời phản ánh sự ác liệt của cuộc kháng chiến.
Nếu chiến khu Việt Bắc là cái nôi của kháng chiến, của báo chí chống Pháp thì chiến khu Tây Ninh cũng được ví như đại bản doanh của kháng chiến chống Mỹ, trung tâm của báo chí chống Mỹ. Khái niệm hậu phương và tiền tuyến trong hoạt động báo chí cách mạng gần như là một; miền Bắc làm báo dưới hầm, dưới sự quần đảo của B52, các trang báo, bản tin phát thanh đều đặn đến với đồng bào, chiến sĩ những tin tức chiến trận nóng bỏng. Báo Giải phóng, Đài phát thanh Giải phóng, Thông tấn xã Giải phóng… với những tấm gương làm báo trung dũng, quả cảm như Kỳ Phương, Thép Mới, Thái Duy, Nguyễn Hồ, Minh Hiền… cùng nhiều nhà báo chiến sĩ khác trên các vùng miền đất nước thời kỳ ấy đã góp phần tạo nên gương mặt báo chí cách mạng kiên cường, bản lĩnh.
Hình ảnh những đôi chân trần của các phóng viên cơ động khai thác thông tin; đôi vai của người dân, quang gánh, xe đạp, thuyền nan, xuồng máy, chiếc làn, giỏ đi chợ, chiếc bánh tét được các bà, các chị, các cháu thiếu niên, nhi đồng ngụy trang kỹ lưỡng để đưa báo cùng truyền đơn, khẩu hiệu tuyên truyền cách mạng vào các thành phố lớn… đi vào huyền thoại báo chí thế kỷ XX.
Trung tướng Trương Thiên Tô nhận định: “Báo chí bám sát tình hình thực tiễn, thông tin kịp thời tình hình chiến sự, làm rõ nhiệm vụ, quán triệt phương châm tác chiến; kịp thời cổ vũ, động viên gương chiến đấu dũng cảm, ý chí quyết chiến quyết thắng của cán bộ, chiến sĩ và củng cố quyết tâm “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.