Đại biểu Quốc hội Đoàn Thị Lê An: “Miễn học phí cần tính toán tới các khu vực đặc thù”
Từ đầu năm học mới 2025 - 2026, toàn bộ học sinh từ mầm non đến học sinh THPT công lập sẽ được miễn học phí. Đây là một chính sách rất nhân văn, tuy nhiên đại biểu Quốc hội Đoàn Thị Lê An (Cao Bằng) vẫn băn khoăn về việc triển khai chính sách này tại các khu vực đặc thù.
Công tác giáo dục tại các vùng miền núi nhiều khó khăn
Đánh giá thực tiễn công tác giáo dục trên địa bàn tỉnh Cao Bằng thời gian qua, đại biểu Đoàn Thị Lê An nhận định công tác này đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhận được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền và xã hội.
Tuy nhiên, cũng giống như nhiều địa phương miền núi khác, Cao Bằng có đặc điểm là tỉnh vùng cao biên giới, trên 95% là đồng bào dân tộc thiểu số. Do đó việc triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về dạy học 2 buổi/ngày, tổ chức bữa ăn trưa cho học sinh, cũng như xây dựng hệ thống trường lớp nội trú, bán trú vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
“Hiện nay trên địa bàn tỉnh Cao Bằng, phần lớn các địa phương đều trong tình trạng thiếu giáo viên, đặc biệt là giáo viên các môn chuyên biệt như Tiếng Anh, Tin học và các môn năng khiếu. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018”, đại biểu Đoàn Thị Lê An thông tin.

Cùng với đó, điều kiện cơ sở vật chất ở nhiều trường chưa đảm bảo đồng bộ. Các phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm, khu nhà ăn, ký túc xá, nhà vệ sinh, nước sạch, thư viện chưa đầy đủ. Hệ thống bán trú, nội trú chưa đáp ứng đủ nhu cầu học sinh, nhất là tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Về khó khăn trong tổ chức bữa trưa, do điều kiện kinh tế hạn chế, nhiều trường chỉ có thể tận dụng nguồn hỗ trợ của Nhà nước như gạo và kinh phí bán trú để duy trì bữa ăn đơn giản, chưa đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho các em.
“Một số địa phương còn thiếu khu bếp ăn, dụng cụ nấu nướng và biên chế nhân viên hỗ trợ, phục vụ, cấp dưỡng. Cá biệt một số trường bán trú vẫn gặp tình trạng thiếu nước vào mùa khô, đó đều là những khó khăn mà chúng ta phải nhìn nhận”, đại biểu Lê An chia sẻ.
Những vướng mắc còn tồn tại về nhận thức, công tác phối hợp giữa nhà trường và cha mẹ học sinh hiện nay chưa hiệu quả cũng là khó khăn rất lớn.
Dù tỷ lệ học sinh đến trường đã cao hơn, tuy nhiên một bộ phận phụ huynh người dân tộc thiểu số chưa hiểu đúng về mô hình học 2 buổi/ngày, dẫn đến sự thiếu hợp tác trong việc tổ chức và duy trì hình thức học tập này.

“Ngân sách vẫn luôn là vướng mắc lớn với nhiều địa phương đặc biệt là một tỉnh vùng núi như Cao Bằng. Nhiệm vụ ưu tiên tập trung phát triển hạ tầng giao thông, đảm bảo phát triển kinh tế xã hội nói chung sẽ dẫn tới nguồn lực tập trung cho giáo dục có phần hạn chế”, đại biểu An nhấn mạnh.
Do đó việc đầu tư xây dựng các trường liên cấp theo hình thức dồn học sinh từ nhiều trường, điểm trường về học và bán trú tại một điểm trường sẽ gặp nhiều khó khăn do đòi hỏi nguồn kinh phí lớn, đầu tư tập trung, trọng điểm.
Nhiều chính sách nền tảng triển khai miễn học phí
Mặc dù còn nhiều khó khăn mà Cao Bằng nói riêng và các tỉnh miền núi nói chung đang phải đối diện, tuy nhiên đại biểu An nhận định chủ trương miễn học phí vẫn đang có nhiều nền tảng chính sách hỗ trợ.
Nghị định 66/2025/NĐ-CP ngày 12/3/2025 của Chính phủ về quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách.
Nghị định số 105/2020/NĐ-CP ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non cũng đã có quy định về chính sách hỗ trợ ăn trưa cho trẻ mầm non.
Nghị định 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ về quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.

“Các Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (2021 - 2030); Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đều là những bệ đỡ vững chắc để triển khai Nghị quyết của Bộ Chính trị về đột phá giáo dục”, đại biểu Đoàn Thị Lê An nhấn mạnh.
Có thể nói các chính sách này đã và đang góp phần phát triển giáo dục nội trú, bán trú, hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số, miền núi và vùng biên giới, qua đó nâng bước cho ngành giáo dục Cao Bằng nói riêng và các tỉnh biên giới miền núi nói chung phát triển.
Tính toán lộ trình triển khai phù hợp
Chia sẻ với phóng viên Báo Đại biểu Nhân dân về những nội dung đặc thù khi triển khai dạy 2 buổi/ngày nhằm đảm bảo tính phù hợp đối với trẻ em dân tộc thiểu số, miền núi, thành viên đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Cao Bằng nhấn mạnh một vài yếu tố cần lưu tâm.
Trong đó yêu cầu đảm bảo đủ giáo viên theo cơ cấu, có năng lực, được bồi dưỡng về phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số.
Cần lưu tâm về đào tạo ngôn ngữ và văn hóa bao gồm tăng cường dạy tiếng Việt ở buổi thứ hai, kết hợp sử dụng song ngữ giai đoạn đầu cấp học để đảm bảo tính phù hợp.
Quan tâm bảo tồn, gìn giữ và phát huy văn hoá đặc trưng các dân tộc thiểu số thông qua giáo dục kết hợp văn hóa các dân tộc cho phù hợp với từng vùng miền, từng đối tượng học sinh là một công tác quan trọng.
“Đối với học sinh dân tộc thiểu số và miền núi cần chú trọng giáo dục kỹ năng sống và trải nghiệm để các em phát triển đồng bộ, toàn diện, đáp ứng sự phát triển của xã hội.
Ưu tiên phát triển các hoạt động kỹ năng sống, lao động, thể thao, nghệ thuật dân gian, sinh hoạt cộng đồng, rèn luyện kỹ năng tự phục vụ”, đại biểu Đoàn Thị Lê An nhấn mạnh.
Bên cạnh nghiên cứu về nội dung, các giải pháp cũng cần được tính toán để đảm bảo những chính sách về giáo dục được triển khai hiệu quả ở những vùng kinh tế khó khăn, địa hình chia cắt, các địa phương vùng núi.
Trong đó tập trung đầu tư xây dựng trường học khang trang, đủ phòng học, nhà ăn, ký túc xá, thư viện, phòng học bộ môn, Internet, bếp ăn đảm bảo vệ sinh. Đảm bảo cơ sở vật chất kết hợp cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - cộng đồng nhằm duy trì sự gắn kết, đồng thuận giúp tiếp bước các em tới trường.
“Công tác theo dõi, đánh giá nên được tính toán thực hiện định kỳ nhằm đo lường hiệu quả triển khai, đồng thời điều chỉnh kịp thời các nội dung chưa phù hợp”, đại biểu Đoàn Thị Lê An chia sẻ.
Theo thành viên đoàn ĐBQH tỉnh Cao Bằng, xã hội hóa giáo dục được xem là một hướng đi tiềm năng để huy động thêm nguồn lực ngoài ngân sách, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Tuy nhiên, thực tế tại Cao Bằng cho thấy ngoài những thuận lợi bước đầu, nguồn lực xã hội hóa cho công tác giáo dục chưa cao, chủ yếu dựa vào nguồn lực các đơn vị, cá nhân ngoài tỉnh.
Khó khăn này xuất phát từ tình hình kinh tế phát triển chưa đồng đều. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo tại các huyện như Nguyên Bình, Bảo Lâm, Bảo Lạc còn cao; người dân chưa có khả năng đóng góp tài chính. Cùng với đó, số lượng doanh nghiệp trên địa bàn ít, quy mô nhỏ, khiến cho khả năng hỗ trợ giáo dục vẫn hạn chế.
“Nhận thức cộng đồng cũng là một rào cản để gia tăng nguồn lực xã hội hoá cho giáo dục. Người dân chưa phân định được giữa “xã hội hóa” với “đóng góp bắt buộc”, kinh tế chưa ổn định dẫn tới việc huy động xã hội hoá từ người dân rất hạn chế”, đại biểu Lê An chia sẻ.

Đề xuất tính toán triển khai chủ trương đột phá giáo dục trong đó có miễn học phí và hỗ trợ bữa ăn trưa cho trẻ em các xã biên giới miền núi, đại biểu Đoàn Thị Lê An cho rằng nên tính toán triển khai theo lộ trình nhằm đảm bảo tính hiệu quả, bền vững.
Giai đoạn 1 tiến hành xây dựng cơ chế minh bạch tiếp nhận, sử dụng nguồn lực xã hội hóa, phân vùng ưu tiên, tuyên truyền sâu rộng, kết nối các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ cho giáo dục.
Giai đoạn 2 triển khai thí điểm chính sách tại các trường thuộc xã biên giới; huy động xây dựng bếp ăn, nhà vệ sinh, hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất huy động từ nhiều nguồn lực.
Giai đoạn 3 từ năm thứ 5 trở đi có thể nghiên cứu mở rộng mô hình, nhân rộng điển hình tốt, kết hợp ngân sách nhà nước và đóng góp tự nguyện.
Các địa phương miền núi mong chờ chính sách đột phá giáo dục
Với những khó khăn thực tiễn đang còn tồn tại ở Cao Bằng nói riêng và các tỉnh miền núi, biên giới nói chung, đại biểu Đoàn Thị Lê An rất kỳ vọng vào việc triển khai thực hiện Kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.
Nếu chủ trương được hiện thực hóa sẽ góp phần giảm gánh nặng tài chính cho cha mẹ học sinh, đặc biệt là hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
Tăng tỷ lệ chuyên cần, duy trì sĩ số học sinh, từng bước xóa bỏ tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng. Tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, từ học tập đến rèn luyện kỹ năng sống, phát triển thể chất.
Đảm bảo công tác giáo dục cũng là chìa khoá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại khu vực; góp phần ổn định dân cư, đảm bảo an ninh xã hội, phát triển bền vững vùng biên giới.
Cần 30.000 tỉ đồng để thực hiện chính sách miễn học phí
Bộ GDĐT thống kê, hiện cả nước có 23,2 triệu học sinh (chưa bao gồm học sinh học tại các trung tâm giáo dục nghề nghiệp và giáo dục thường xuyên).
Ước tính, để thực hiện chủ trương miễn học phí, Nhà nước phải chi trả khoảng 30.000 tỉ đồng (nếu trừ ngân sách địa phương của các tỉnh/thành phố đã thực hiện miễn học phí thì ngân sách Trung ương sẽ phải thực hiện ít hơn số này).
Trên thực tế, mức ngân sách cần bảo đảm sẽ phụ thuộc vào mức học phí cụ thể của từng tỉnh, TP trực thuộc TƯ theo thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh quyết định trên cơ sở quy định mức sàn, trần học phí quy định của Chính phủ.