Cần 'đòn bẩy' đủ mạnh để công nghiệp hỗ trợ 'cất cánh'
Việc triển khai thực hiện Nghị định 111/2015/NĐ-CP là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ xuyên suốt gần 9 năm qua. Bộ Công Thương đã ghi nhận tác động lớn của chính sách này đến thực tiễn của ngành công nghiệp hỗ trợ.
Đánh giá của Bộ Công Thương cho thấy, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đã tham gia dần được vào các chuỗi cung ứng và đạt được giá trị gia tăng tương đối cao. Bên cạnh đó, nhiều ngành nâng mức tự chủ nguồn nguyên vật liệu, như: ngành dệt may - da giày tự chủ được khoảng 30 - 45%; ngành cơ khí chế tạo tự chủ được phần nguyên liệu khoảng 30%; lĩnh vực ô tô tỉ lệ nội địa hóa tương đối lớn…
Với những chính sách ưu đãi về công nghiệp hỗ trợ, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp FDI vệ tinh đi theo những tập đoàn lớn đã tham gia đầu tư vào Việt Nam để được hưởng các chính sách ưu đãi về chính sách, về thuế và các chính sách liên quan đến môi trường, vốn đã được ban hành. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện không chỉ sản xuất những linh kiện mà có hàm lượng công nghệ thấp và chỉ cần tập trung vào những thế mạnh về nhân công giá rẻ, mà đã tiến lên những nấc thang cao hơn của các linh kiện đòi hỏi về công nghệ cao hơn, ví dụ như: dập rèn, hay các linh kiện cho những dòng xe mới.

Tuy nhiên, so với yêu cầu mới, đặc biệt khi Chính phủ thông qua các Chiến lược phát triển ngành cơ khí, ôtô, da giày, dệt may thì cần khẩn trương hoàn thiện việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 111/2015 nhằm tạo cơ chế tháo gỡ các điểm nghẽn về thị trường, tín dụng cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ....
Bộ Công Thương đã nhiều lần đề xuất sửa đổi Nghị định số 111/2015/NĐ-CP với nhiều chính sách ưu đãi mới được đề xuất. 5.000 doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục sản phẩm ưu tiên phát triển sẽ được hưởng các ưu đãi, gồm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Việc xây dựng Dự thảo sửa đổi Nghị định 111/2015/NĐ-CP được Bộ Công Thương thực hiện theo hướng tận dụng tối đa các lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên, ví dụ trong ngành ô tô là CPTPP, EVFTA, ATIGA. Điều này sẽ giúp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa các nguyên vật liệu và phụ tùng, giảm nhập khẩu linh kiện, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm công nghiệp cuối cùng.
Để làm được điều này, chính sách về tài chính dành cho cả doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp CNHT trong nước phải đủ “hấp dẫn”. Bộ Công Thương đề xuất hỗ trợ doanh nghiệp, công nghiệp hỗ trợ với khoản cấp bù chênh lệch lãi suất 3%/năm cho đối tượng thuộc diện ưu đãi đầu tư. Thời gian được nhà nước hỗ trợ tín dụng bằng thời hạn cho vay, nhưng không quá 10 năm kể từ ngày ký hợp đồng vay vốn. Chính sách này áp dụng với các khoản vay ký thỏa thuận vay vốn, giải ngân thực hiện đến hết năm 2030.
Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) Phạm Tuấn Anh đánh giá, các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam đều được sự hỗ trợ rất lớn từ tập đoàn mẹ hoặc tổ chức tài chính của nước sở tại với lãi suất rất thấp. Trong khi đó, lãi suất trong nước của chúng ta rất cao. Với chênh lệch đó, chúng ta đã thua từ khi sử dụng vốn để đầu tư dự án, tức là thua ngay từ bước đầu tiên.
Theo Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), bên cạnh hỗ trợ về vay vốn, điểm mấu chốt để các doanh nghiệp CNHT phát triển sản xuất, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng là phải cắt giảm được chi phí sản xuất. Đồng thời, doanh nghiệp cần được tiếp cận tín dụng tốt hơn thông qua hình thức vay ưu đãi, bảo lãnh không thế chấp; nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ, quản trị sản xuất...
Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, việc nhà nước đứng ra hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn đầu của quá trình sản xuất là nuôi dưỡng nguồn thu, doanh nghiệp phải sản xuất, phải làm ra của cải cho đất nước mới có được doanh thu và mới được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức ưu đãi.
Bên cạnh đó, muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ, bên cạnh những chính sách ưu đãi, doanh nghiệp cần sự kết nối của Bộ Công Thương, của địa phương với các doanh nghiệp lớn. Đại diện Bộ Công Thương biết, để tiếp tục thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công Thương đang đề xuất những chính sách liên quan đến tạo lập thị trường, xây dựng các cụm liên kết ngành, hỗ trợ doanh nghiệp về tín dụng… Song song đó, sẽ có ràng buộc với các doanh nghiệp nước ngoài trong phát triển tỉ lệ nội địa hóa. Bộ Công Thương cũng kiến nghị địa phương xem xét bố trí bổ sung nhân sự làm công nghiệp.
Song song với Nghị định số 111, Nghị quyết số 115/NQ-CP về các giải pháp thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ (Nghị quyết số 115) được đánh giá là đòn bẩy chính sách hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho ngành công nghiệp Việt Nam nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng phát triển mạnh mẽ, tạo cơ hội đón làn sóng chuyển dịch đầu tư từ nước ngoài.
Nghị quyết số 115 thể hiện sự quyết tâm và nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc cải thiện môi trường đầu tư, đổi mới cơ chế chính sách, cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.