Giếng Thiên Quang trong sự tương đồng văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa
Qua nghiên cứu, TS. Trần Hậu Yên Thế, Trường Khoa học liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã có những kiến giải mới về giếng Thiên Quang ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám trong sự tương đồng văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa.
Ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ
Khảo cứu 82 văn bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, TS. Trần Hậu Yên Thế cho biết, không thấy chi tiết nào nói về giếng Thiên Quang. Tuy nhiên, từ Tiểu luận về Nghệ thuật An Nam của học giả Pháp Louis Bezacier, có viết “puits de l'eclat céleste”, tức giếng chứa ánh sáng từ trên trời, khi liên tưởng tới loại hình bawdi của Ấn Độ, người ta đã định danh được Thiên Quang tỉnh ở Văn Miếu.

"Dạng thức bawdi (hay vavs) là giếng có cấu trúc phình to ở miệng, càng thu hẹp khi đi xuống, tựa như kim tự tháp úp ngược. Cấu trúc giếng bậc thang gồm hai phần với một trục thẳng đứng để hút nước và các lối đi ngầm nghiêng xung quanh. Trên lối đi ấy có các bậc thang dẫn xuống giếng. Dạng thức kiến trúc này phát triển ở miền Tây Ấn Độ từ thế kỷ VII - XIX", TS. Trần Hậu Yên Thế giải thích.
Do điều kiện thời tiết hạn hán quanh năm, người Ấn Độ xưa thay vì xây dựng giếng nhỏ, sử dụng gàu múc như ở Trung Hoa, đã xây dựng công trình lớn, có những bậc thang dẫn xuống hàng chục mét, phục vụ số lượng lớn người dân đến lấy nước sinh hoạt. Giếng tại đây còn được chạm khắc hoa văn tinh xảo, có vai trò quan trọng trong tôn giáo, tín ngưỡng bản địa.
PGS.TS. Đinh Hồng Hải, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng, với sức chứa lớn như vậy, lại xây dựng cạnh không gian sinh hoạt của cộng đồng, có thể đây còn là nơi thờ nữ thần nước.
Theo các nhà nghiên cứu, tại nhiều địa phương, người ta đã tìm thấy nhiều dạng thức kiến trúc chứa nước hình vuông có ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa Ấn Độ. Đó là giếng cổ xây dựng dưới thời kỳ Chăm Pa trong di tích tháp Khương Mỹ, thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, Núi Thành, Quảng Nam; hồ Linh Chiêu nằm trong khuôn viên di tích chùa Một Cột (Ba Đình, Hà Nội); giếng Ngọc trong khuôn viên đền Cùng tại làng Diềm (xã Hòa Long, TP. Bắc Ninh)…
Trải qua thời gian, các công trình chùa, tháp đã có nhiều thay đổi về thiết kế, quy mô, diện tích, song tính ổn định của bình đồ mặt nước hình vuông vẫn được giữ nguyên.
Tương đồng với tư duy văn hóa Trung Hoa
Dẫn lại tư liệu khảo cổ năm 1960 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám của GS.TS. Trần Lâm Biền, TS. Trần Hậu Yên Thế thông tin, trong lòng giếng Thiên Quang có 9 bậc xây bằng gạch dẫn sâu xuống phía dưới, cho thấy nơi đây từng là không gian sinh hoạt cộng đồng rất lớn, song vẫn chưa đủ bằng chứng kết luận giếng này có được sử dụng làm không gian thiêng trong thực hành nghi thức giống văn hóa Ấn Độ hay không.
“Tuy nhiên, từ chuyến điền dã giếng Thiên Quang tại làng Trung Kính (Hà Nội), chúng tôi ghi được câu chuyện dân gian, việc những người phụ nữ trong làng thường ra giếng xin nước khi bị hết sữa, tắc sữa. Chi tiết này chứng tỏ giếng được thiêng hóa, trở thành biểu tượng mang yếu tố âm, phù trợ cho người phụ nữ”, TS. Trần Hậu Yên Thế nói.
Với những tính chất thiêng như vậy, ở nhiều địa phương, người ta cũng múc nước giếng về thực hành những nghi thức như: mộc dục đồ thờ, hay sử dụng trong thờ cúng trong đình, đền thờ. Từ yếu tố “thiên” (trời) và “tỉnh” (giếng), TS. Trần Hậu Yên Thế tiếp tục gợi mở về công năng khác của giếng ngoài việc trữ nước.
Theo ông, ở Trung Quốc xuất hiện một hình thức kiến trúc có tên tảo tỉnh, tên gọi khác của thiên tỉnh, được hiểu là giếng trời, có điêu khắc và trang trí hình vẽ dùng nhiều trong cung điện, trong tòa điện của chùa miếu. Qua thời gian, loại hình này dần dần không xuất hiện ở Việt Nam, thay vào đó là một loại hình giếng trời khác xuất hiện phổ biến trong kiến trúc đô thị.

Có thể dễ dàng bắt gặp dạng thức kiến trúc này ở những công trình được xây dựng theo dạng tứ hợp viện, như hội quán của người Hoa. Đây là dạng kiến trúc có 4 dãy nhà bao quanh tạo thành hình vuông, ở giữa có khoảng trống không gian mở hoặc khoảng trống hình chữ nhật, hoặc hình vuông trong một tòa nhà và nếu ngước nhìn lên hình dạng giống như một cái giếng sâu, đó cũng là lý do nó có tên gọi “giếng trời".
"Hiện nay, ở nhiều ngôi biệt thự xây dưới thời Pháp thuộc trên phố cổ Hà Nội có khoảng sân ở giữa thông lên trời, cũng gọi là giếng trời. Như vậy, trong tư duy của người Trung Hoa, giếng có thể sâu nhưng không nhất thiết là chứa nước, mà lại chứa không khí, chứa ánh sáng từ trên trời chiếu xuống, ứng với tên gọi giếng Thiên Quang, như ta thấy ở Văn Miếu", TS. Trần Hậu Yên Thế phỏng đoán.