Nghị quyết số 43/2022/QH15 góp phần hiệu quả vào tăng trưởng 5,05%

Minh Châu 07/01/2024 15:00

Nghị quyết số 43/2022/QH15, Nghị quyết số 101/2023/QH15 và Nghị quyết số 110/2023/QH15 của Quốc hội cùng sự chỉ đạo quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm của Chính phủ đã hỗ trợ hiệu quả chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch, để ứng phó với các “cơn gió ngược”, giúp tăng trưởng năm 2023 trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu (5,05%).

Bất động sản dần qua “vùng đáy”

“Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước “tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ”, song phải đến 23.4.2023, tức sau 16 tháng kể từ ngày Quốc hội ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Thông tư 02/2023/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn. Nếu ban hành sớm hơn trong năm 2022 thì sẽ có tác động rất tích cực đối với nền kinh tế”, Chủ tịch HoREA Lê Hoàng Châu nêu rõ.

Theo Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh (HoREA), sau hai năm triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11.1.2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội, gần đây là Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24.6.2023 và mới nhất là Nghị quyết số 110/2023/QH15 ngày 29.11.2023 (tiếp tục cho phép giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng thuế suất này đến hết ngày 30.6.2024), với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, đã hỗ trợ hiệu quả chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch.

Không những thế, việc triển khai các nghị quyết trên còn giúp nền kinh tế ứng phó với các “cơn gió ngược” từ các xung đột địa chính trị, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát gia tăng và giảm tổng cầu trên phạm vi toàn cầu. Nhờ đó, tăng trưởng GDP năm 2022 tăng đến 8,02%, năm 2023 dù thấp hơn mục tiêu song vẫn tăng 5,05% - trở thành điểm sáng tăng trưởng toàn cầu.

Riêng với lĩnh vực bất động sản, “kể từ cuối quý I.2023, thị trường bất động sản cả nước cũng như tại TP. Hồ Chí Minh đã dần đi qua "vùng đáy" khó khăn và đang trong quá trình phục hồi, tháng sau cao hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước”, Chủ tịch HoREA Lê Hoàng Châu bình luận.

Một số chính sách hỗ trợ vẫn thiếu hiệu quả

Rõ ràng, tác động từ các nghị quyết của Quốc hội đã được minh chứng rõ trên thực tế. Dù vậy, theo đánh giá của các doanh nghiệp bất động sản TP. Hồ Chí Minh, việc triển khai các nghị quyết trên vẫn còn những hạn chế.

Cụ thể, tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 có quy định doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được hỗ trợ lãi suất (2%/năm) tối đa 40 nghìn tỷ đồng thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại cho một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi; cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua. Song, đến nay chỉ giải ngân được khoảng 875 tỷ đồng, đạt tỷ lệ khoảng 2,3%.

Nguyên nhân bởi các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh bị tác động của đại dịch Covid-19 đã bị suy kiệt, khó có thể chứng minh được “có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi”. Doanh nghiệp sợ bị hậu kiểm sau khi đã nhận khoản hỗ trợ “giảm 2% lãi suất” sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Riêng với việc cho vay cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua, kết quả giải ngân trên đã cho thấy chính sách này không thực hiện được, bởi lẽ hầu như tất cả các dự án cải tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua đều bị ách tắc do bị vướng mắc pháp lý. Theo HoREA, vướng mắc pháp lý chiếm đến 70% khó khăn đối với các doanh nghiệp chủ đầu tư dự án bất động sản, bao gồm cả các dự án nhà ở xã hội. Số liệu của Bộ Xây dựng cho thấy, cả nước có khoảng 1.200 dự án bị vướng mắc pháp lý; riêng tại TP. Hồ Chí Minh có hơn 148 dự án và hiện mới tháo gỡ được khoảng 30%.

Cũng tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết số 11/NQ-CP quy định chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động có quan hệ lao động, đang ở thuê, ở trọ, làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm (sử dụng khoảng 6,6 nghìn tỷ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021). Mặc dù được đánh giá là chính sách “rất nhân văn và rất thiết thực”, song thực tế triển khai vẫn chậm và “hầu như không áp dụng cho người lao động thuê nhà trọ mà không làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm”, ông Lê Hoàng Châu thông tin.

Điểm đáng chú ý nữa được đại diện các doanh nghiệp chỉ ra rằng, mặc dù các đối tượng chủ nhà trọ đang giải quyết chỗ thuê trọ cho hàng triệu công nhân trong cả nước nhưng vẫn chưa được hưởng chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 43/2022/QH15. Riêng tại TP. Hồ Chí Minh, đã có hơn 60.000 chủ nhà trọ với hơn 600.000 phòng trọ cho thuê. Đây là nhóm đối tượng cũng rất cần có chính sách hỗ trợ thiết thực.

Bên cạnh việc hỗ trợ tiền thuê nhà trọ, Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết số 11/NQ-CP cũng quy định tăng hạn mức bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu phát hành trong nước cho Ngân hàng Chính sách Xã hội tối đa 38,4 nghìn tỷ đồng để cho vay hỗ trợ cho cá nhân vay mua, thuê mua nhà ở xã hội, xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở theo chính sách về nhà ở xã hội, song nhìn chung chưa thực hiện được đáng kể vì thiếu nguồn nhà ở xã hội.

Đơn cử, tại TP. Hồ Chí Minh, Ngân hàng Chính sách xã hội cho biết trong 2 năm 2022 và 2023 chỉ giải ngân được 35,7 tỷ đồng để mua, thuê mua nhà ở xã hội, nếu tính suất vay bình quân 600 triệu đồng thì chỉ tương đương 63 căn nhà ở xã hội. Đây là con số rất khiêm tốn so với nhu cầu thực tế!

Ngoài ra, theo đại diện doanh nghiệp, việc thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 và Nghị quyết số 11/NQ-CP giao Ngân hàng Nhà nước “chỉ đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5 - 1% trong 2 năm 2022 và 2023, nhất là đối với lĩnh vực ưu tiên” nhưng việc giảm lãi suất được các ngân hàng thương mại thực hiện cũng khá chậm, mới giảm lãi vay cho các khoản vay mới, với mức giảm lãi suất khoảng 1,5 - 2% so với đầu năm 2023, còn các khoản vay cũ vẫn còn chịu lãi suất khá cao. Điều này cũng khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tại cuộc họp báo triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng trong năm 2024 mới đây, Vụ trưởng Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Phạm Chí Quang cho biết, hiện lãi suất huy động bình quân ở mức 3,9%, lãi suất cho vay với các khoản vay mới bình quân 6,7%, đã giảm trên 2,5 % so với cuối năm 2022. Lãi suất các khoản cho vay mới đã thấp hơn rất xa so với trước Covid-19. Sở dĩ có sự chênh lệch lãi suất là bởi có tới 80% vốn huy động là ngắn hạn, trong khi đó có trên 50% cho vay là trung, dài hạn, điều này dẫn đến lãi suất huy động giảm nhanh, lãi suất cho vay giảm chậm hơn.

Minh Châu