Hướng tới một Hà Nội dung hợp - nhân văn và đáng sống

Lê Thư thực hiện 10/04/2023 06:50

Đó không chỉ là yêu quý công trình vật lý mà còn là cảm xúc của cá nhân và cộng đồng khi gắn với các không gian công cộng. Vì yêu thành phố nên sự thu hẹp và biến mất của những nơi chốn ấy ở Hà Nội khiến người ta trăn trở, thôi thúc làm sao tìm ra giải pháp và hành động cụ thể…

Hà Nội thiếu không gian công cộng

- Triển lãm “Nơi tôi đến” đang diễn ra tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam chia sẻ về cơ hội tiếp cận không gian công cộng từ những nữ lao động di cư ở Hà Nội. Là người điều phối Mạng lưới Vì một Hà Nội đáng sống, những hình ảnh, câu chuyện trong triển lãm gợi cho anh suy nghĩ gì?

- Tôi là một trong ba khách mời của chương trình giao lưu khai mạc triển lãm. Tôi ấn tượng với câu chuyện của chị Lê Thị Hoa, một phụ nữ bán bánh rán rong khắp các con phố Hà Nội. Chị Hoa chia sẻ một ngày chị đi bộ 30 - 40km, thường thức dậy từ 3 giờ 30 sáng để đi nặn bánh, rán bánh rồi rời lò bánh đi bán, thường bán đến 8 giờ tối, hôm nào ế thì đến 11 giờ đêm. Khi gồng gánh trên quãng đường ấy, chị nghỉ chân ở đâu? Tất nhiên, lý tưởng là dưới tán cây, trong không gian công cộng. Chị không thể nghỉ trước cửa hàng, cửa hiệu hay cửa nhà người khác, vì sẽ bị "mời" đi ngay. Đây là lý do không gian công cộng rất quan trọng với người lao động di cư, đặc biệt những phụ nữ bán hàng rong. Với họ, không gian công cộng không chỉ là nơi vui chơi, tập thể dục, hẹn hò như người dân đô thị, mà còn là nơi nghỉ chân trên đường mưu sinh.

Từ câu chuyện của chị Hoa tôi nghĩ đến khái niệm thành phố dung hợp (inclusive city) đang là xu hướng phát triển đô thị trên thế giới. Thành phố dung hợp có nghĩa thành phố của tất cả, ai cũng thấy mình thuộc về và được đối xử bình đẳng. Rõ ràng, không gian công cộng sẽ giúp thành phố dung hợp hơn vì ai cũng có thể tiếp cận, dù là người địa phương, lao động di cư như chị Hoa, người già, trẻ em và người khuyết tật.

- Người lao động di cư có ý nghĩa như thế nào với các thành phố như Hà Nội, và ngược lại?

- Làm việc với người lao động di cư, tôi thấy họ rất gắn bó với Hà Nội. Hà Nội không chỉ là nơi tạo sinh kế, tạo ra thu nhập mà còn là tương lai của họ, tương lai của con cái họ. Ngược lại, vai trò của họ đối với sự phát triển của thành phố cũng rất lớn khi công việc họ làm đang duy trì cuộc sống đô thị. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta chưa nhìn nhận điều đó một cách đầy đủ, thậm chí có thái độ phân biệt đối xử, kỳ thị với người lao động di cư.

- Từ thực tế khảo sát, thực hiện các chuỗi dự án Vì một Hà Nội đáng sống, anh nhìn nhận cơ hội tiếp cận không gian công cộng của người lao động di cư như thế nào?

- Ở đây không chỉ là cơ hội tiếp cận không gian công cộng của người lao động di cư, mà việc thiếu không gian công cộng nói chung đang là một thực trạng. Hà Nội so với các thành phố ở châu Âu thì diện tích không gian công cộng trên đầu người chỉ bằng khoảng 1/5, thậm chí 1/10, rất thấp. Một nguyên nhân là do quy hoạch trước đây không dành ưu tiên cho không gian, khoảng trống cho phát triển không gian công cộng.

Hai cơ hội quan trọng

- Nếu vấn đề nằm ở lịch sử quy hoạch, chúng ta còn cơ hội nào để mở rộng, phát triển không gian công cộng trong lòng Thủ đô nữa hay không?

"Chúng ta cùng hướng tới một Hà Nội dung hợp - một Hà Nội không chỉ của người Hà Nội gốc, mà của cả lao động di cư, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, thậm chí cả người nước ngoài đến đây và cảm thấy được gắn bó, được hiểu thành phố… Chúng ta xây dựng không gian công cộng vì những điều như vậy, để văn hóa cộng đồng được thúc đẩy, để thành phố nhân văn, đáng sống cho mọi người".

Điều phối viên mạng lưới Vì một Hà Nội đáng sống Lê Quang Bình

- Chúng ta đang đứng trước hai cơ hội quan trọng. Thứ nhất là kế hoạch di dời các nhà máy cũ khỏi nội đô. Theo khảo sát, Hà Nội hiện có khoảng 100 nhà máy, nhiều nhà máy có giá trị lịch sử và kiến trúc đô thị. Thay vì đập đi để xây chung cư thương mại, Hà Nội có thể xem xét việc coi các nhà máy là di sản công nghiệp, chuyển đổi thành không gian công cộng, sáng tạo. Hướng đi này cũng phù hợp với chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội và nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Đức, Anh, Pháp cũng làm theo cách này.

- Thân thiện với môi trường, kết nối gần gũi với tự nhiên có lẽ cũng là lý tưởng phát triển các không gian công cộng?

- Đây chính là cơ hội thứ hai mà tôi muốn nói đến: phát triển không gian công cộng sinh thái cho Hà Nội ở khu vực bờ vở sông Hồng. Từ lâu, đó là một không gian không ai dám đến, vì ô nhiễm môi trường, hôi thối vì chồng chất rác thải. Việc cải tạo này là khả thi vì Mạng lưới Vì một Hà Nội đáng sống đã làm thí điểm thành công ở phường Chương Dương, quận Hoàn Kiếm. Chúng tôi đã được Quận ủy và UNBD quận Hoàn Kiếm ủng hộ, chính quyền và đoàn thể phường Chương Dương, các tổ chức như Think Playgrounds, Keep Hà Nội Clean, GreenHub, và đặc biệt là cộng đồng dân cư biến 6000m2 bãi rác thành công viên vườn rừng. Riêng quận Hoàn Kiếm có 3,8km bờ vở, nếu được đầu tư cải tạo thành công viên sinh thái thì thực sự nó sẽ cải thiện chất lượng sống của người dân, và làm Hà Nội đáng sống hơn.  

Phát triển hài hòa, bền vững

- Trong quá trình hiện thực hóa các ý tưởng mà Mạng lưới Vì một Hà Nội đáng sống khởi xướng nhiều năm qua, anh và các cộng sự gặp khó khăn gì?

- Chúng ta thiếu hệ thống cơ chế, chính sách mở đường cho các sáng kiến mở rộng không gian công cộng. Ví dụ, để chuyển đổi các nhà máy cũ thành không gian sáng tạo, không gian công cộng, phải khảo sát các nhà máy xem phần nào cần giữ lại, phần nào cải tạo, mô hình chuyển đổi thế nào, ai có thể tham gia đầu tư, ngân sách của Nhà nước ra sao, vai trò của cộng đồng là gì… tất cả phải có hành lang pháp lý cụ thể. Gần đây, thành phố đã quan tâm đến phát triển không gian công cộng, khả năng chuyển đổi nhà máy cũ thành không gian sáng tạo phục vụ phát triển công nghiệp văn hóa. Tôi hy vọng hướng đi này được đẩy nhanh để Hà Nội có thêm không gian công cộng giúp thành phố phát triển hài hòa, bền vững.

- Từ kinh nghiệm của các dự án đã triển khai, theo anh, làm thế nào để tạo ra các không gian công cộng và quản lý, sử dụng chúng thực sự hiệu quả, hữu ích?

- Tôi cho rằng dự án cải tạo bờ vở sông Hồng là mô hình quản lý không gian công cộng dựa vào cộng đồng bền vững. Đến nay khu vườn rừng này đang được sử dụng và quản lý tốt bởi cộng đồng dân cư tại chỗ. Để có được điều này, nhu cầu của tất cả người dân: phụ nữ và nam giới, trẻ em và người già, người khỏe mạnh và người khuyết tật, lao động di cư và người dân tại chỗ... được tích hợp vào thiết kế. Nhưng quan trọng hơn, người dân phải tham gia ngay từ đầu, cùng ra quyết định, thiết kế, thi công, đưa ra quy chế quản lý để nhắc nhở nhau gìn giữ... Có như vậy không gian mới được sử dụng và quản lý bền vững.  

- Xin cảm ơn anh!

Lê Thư thực hiện