Nhu cầu có thật?
Phát biểu tại tọa đàm liên quan đến phát triển sân bay nhỏ, một chuyên gia đã bày tỏ quan điểm: Nhu cầu sân bay của địa phương hiện nay là có thật, khác xa với “cuộc đua” địa phương nào cũng cần sân bay như trước kia.
Và rằng, phải xuất phát từ thực tế để thấy rằng không phải việc đầu tư, xây dựng sân bay nào cũng xấu. Áp hiện tượng cũ vào thực tế mới sẽ không đúng với tình hình khi thời điểm này nhu cầu đi lại của người dân gia tăng và nhiều doanh nghiệp tư nhân cho thấy khả năng tham gia vào những dự án lớn của quốc gia.
Ý kiến này "gợi mở" một hướng mới rằng có nên phát triển các sân bay ở địa phương hay không vì chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, đã có tới 5 tỉnh là Sơn La, Tuyên Quang, Kon Tum, Ninh Thuận, Đồng Nai kiến nghị Bộ Giao thông Vận tải bổ sung 5 sân bay vào dự thảo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050.
Tất nhiên khi kiến nghị, địa phương đều nêu bật những mặt thuận lợi, tác động tích cực như tạo thuận lợi cho người dân đi lại, kích thích du lịch, kinh tế phát triển... Thế nhưng nếu nhìn nhận kỹ càng hơn sẽ thấy có nhiều vấn đề cần giải quyết. Ví dụ như nhiều tỉnh cùng có sân bay thì đương nhiên lưu lượng hành khách bị san sẻ, công suất khai thác giảm, thậm chí là vắng khách. Hơn nữa, để đầu tư xây dựng một sân bay, ngoài diện tích đất lớn thì số vốn cũng không phải là nhỏ - liệu địa phương có "kham" nổi hay không?
Vậy có cần thiết phát triển sân bay, nhất là các sân bay cỡ nhỏ ở các địa phương hay không? Câu trả lời là có. Lý do, theo đại diện Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nếu được đầu tư sẽ mang lại cơ hội tiếp cận, mở đường cho sự phát triển của các địa phương; kết nối hàng không tạo điều kiện để khai phá tiềm năng phát triển kinh tế. Mặt khác, mạng lưới sân bay tại nước ta được đánh giá là “mỏng” hơn nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, trong khi lại là một nền kinh tế mở, nhu cầu đi lại, giao thương đang ngày càng gia tăng - nên việc phát triển là cần thiết.
Ý kiến khác thì nhấn mạnh rằng, Việt Nam cần tính tới việc quy hoạch hệ thống sân bay gồm 3 lớp, trong đó, lớp trên cùng là các sân bay trung tâm lớn với lưu lượng hàng năm hơn 20 triệu lượt hành khách, xử lý phần lớn nhu cầu giao thông. Tầng thấp nhất là các sân bay địa phương và lớp giữa - lớp cầu nối, giữ vai trò kết nối các sân bay trung tâm và sân bay địa phương. Những sân bay này không chỉ có chức năng như một trạm trung chuyển trực tiếp cho các sân bay lớn trong mạng lưới nhằm tối ưu hóa vận tải mà còn là sân bay dự phòng chiến lược trong trường hợp các sân bay lớn bị quá tải...
Có thể thấy, nhu cầu phát triển sân bay tại các địa phương là có, tuy nhiên, để có thể đầu tư và mang lại hiệu quả, điều quan trọng như ý kiến của đại diện Viện Chiến lược Phát triển, trước tiên cần phân biệt rõ thế nào là sân bay nhỏ. Thứ hai là chú trọng hiệu quả đầu tư xây dựng, khai thác, vận hành. Thứ ba, cần làm rõ phương thức đầu tư phát triển, do Nhà nước, khu vực ngoài nhà nước hay hợp tác công - tư (PPP) và cuối cùng là có cần những cơ chế khuyến khích khu vực đầu tư nước ngoài đầu tư, quản lý, vận hành và khai thác như thế nào.
Ở phạm vi hẹp, lợi ích của sân bay thể hiện qua hiệu quả hoạt động, đó là lỗ hay lãi. Ở phạm vi rộng hơn là những lợi ích gián tiếp như phát triển du lịch, logistics, đô thị và giải quyết công ăn việc làm… Cho nên dù là nhu cầu có thật, là cần thiết đi chăng nữa thì cũng không phải bằng mọi giá hay chạy theo phong trào mà phải nhìn vào hiệu quả tổng thể, lợi ích tiềm năng.