Bài 2: "Cá thể hóa” trách nhiệm đến từng chức danh
TS. BÙI NGỌC THANH - Nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Từ hiệu quả thực tế của 4 hình thức giám sát tối cao (gồm: xem xét báo cáo công tác; xem xét việc trả lời chất vấn; xem xét báo cáo giám sát chuyên đề; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm) cho thấy, càng “cá thể hóa” trách nhiệm đến từng chức danh cụ thể thì hiệu lực, hiệu quả giám sát sẽ càng cao hơn, mạnh mẽ hơn.
Định lượng cụ thể cho mỗi tiêu chí
Từ những tiêu chí riêng của từng hình thức giám sát tối cao của Quốc hội có thể rút ra điều gì?
Trước hết, trong 4 hình thức giám sát tối cao đã nêu thì có 2 hình thức đánh giá cho tập thể, đó là hình thức xem xét báo cáo và hình thức giám sát chuyên đề; và hai hình thức đánh giá chủ yếu cho cá nhân, đó là chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm. Theo nhận xét chung thì các hình thức giám sát đánh giá cá nhân có hiệu lực, hiệu quả hơn, vì trách nhiệm thuộc về một người cụ thể, không thể dựa dẫm, đổ lỗi cho ai được nên người bị giám sát bao giờ cũng cố gắng hơn, chuyển biến nhanh hơn. Còn các hình thức giám sát đánh giá cho tập thể thì ít nhiều vẫn có tình trạng “cha chung, mỗi người khóc một tý", tùy mức độ liên đới trách nhiệm. Vì thế, trong hoạt động giám sát cần “cá thể hóa” trách nhiệm đến từng chức danh, từng người cụ thể thì hiệu lực, hiệu quả sẽ cao hơn, mạnh mẽ hơn.
Cùng với đó, đánh giá hiệu quả một cuộc giám sát có thể phải đánh giá ở hai thời điểm khác nhau: thời điểm ngay khi kết thúc cuộc giám sát (là những vấn đề tức thời, xác định rõ được ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và trách nhiệm của đối tượng bị giám sát); và thời điểm sau một thời gian khắc phục những yếu kém, khuyết điểm (là những vấn đề về mức độ khắc phục - tiến bộ đạt được, tác động đến kinh tế - xã hội...).
Riêng hình thức giám sát lấy phiếu tín nhiệm thì kết quả đã được định lượng rõ ràng, còn 3 hình thức giám sát khác mới chỉ là định tính, vẫn rất khó đánh giá tổng quát, chính xác. Vì thế rất cần định lượng cụ thể cho mỗi tiêu chí của mỗi hình thức giám sát. Để bớt phức tạp thì có thể đánh giá hiệu quả mỗi tiêu chí với 3 mức độ: tốt là A, chấp nhận được (trung bình) là B và chưa tốt (kém) là C. Hoặc có thể cho điểm (tốt là 3 điểm, trung bình là 2 điểm và chưa tốt, kém là 1 điểm). Tổng hợp lại sẽ là mức độ cụ thể.
Cần lưu ý rằng, khi lượng hóa những vấn đề định tính, nhất là các vấn đề kinh tế - xã hội thì kết quả chỉ là tương đối. Vì trong thực tiễn đời sống, chỉ có các quy luật tự nhiên là mang ý nghĩa tuyệt đối, còn các quy luật xã hội, quy luật kinh tế chỉ mang ý nghĩa là xu hướng (xu thế). Đánh giá hiệu quả giám sát bằng những con số cụ thể là điều "tế nhị" đối với cả tập thể và cá nhân nhưng vì lợi ích quốc gia không thể không làm. Có được kết quả cụ thể sẽ giúp cho chỉ đạo có biện pháp cần thiết, thích hợp để điều chỉnh, chấn chỉnh thúc đẩy công việc tốt hơn sau giám sát (vì chỉ đạo đòi hỏi phải cụ thể, thậm chí cụ thể đến từng địa chỉ).
"Đo" hiệu quả thực tế
Hiệu quả của 4 hình thức giám sát của Quốc hội (chỉ tập trung vào giai đoạn chưa có đại dịch Covid - 19, từ cuối năm 2019 trở về trước) như thế nào?
Đối với hình thức xem xét báo cáo kinh tế - xã hội của Chính phủ: Đây là hình thức giám sát mỗi năm được Quốc hội thực hiện hai lần, trong đó lần cuối năm có tầm quan trọng hơn vì có điều kiện xem xét kết quả hoạt động kinh tế - xã hội trong cả một năm (thay vì nửa năm) và có so sánh với cùng kỳ và các kỳ trước đó. "Ráp" vào các tiêu chí có thể đánh giá bằng phân loại (A, B, C) hoặc cho điểm, đa số ý kiến sau giám sát cho rằng, Chính phủ trong nhiệm kỳ qua (trước khi bùng phát đại dịch Covid-19) đã chỉ đạo hoạt động kinh tế - xã hội đạt hiệu quả tương đối tốt.
Theo kết luận thảo luận của chủ tọa kết thúc các phiên họp giám sát của Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội Khóa XIV ngày 1.11.2019 thì, “mặc dù vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng... kinh tế - xã hội đã đạt được kết quả khá toàn diện và tích cực, là năm thứ hai có tốc độ tăng trưởng khá, đạt tương đối đồng bộ các mục tiêu tổng quát đã được Quốc hội đề ra, là cơ sở quan trọng để tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2016 - 2020”.
Đánh giá chỉ ở mức tương đối tốt mà chưa phải hoàn toàn tốt là vì, nhiều ý kiến của đại biểu đã thẳng thắn chỉ ra những khuyết, nhược điểm của nền kinh tế - xã hội mà ngay Chính phủ cũng đã thừa nhận trong báo cáo của mình, đó là: tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn diễn biến phức tạp, nhất là tại các đô thị, khu công nghiệp, các làng nghề, các lưu vực sông; các lĩnh vực văn hóa, xã hội còn những bất cập, đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai; kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững; khoảng cách phát triển giữa các vùng miền còn lớn; cải cách hành chính ở một số lĩnh vực chưa thực chất, tình trạng tham nhũng vặt vẫn tiếp diễn; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức quan liêu, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, cho doanh nghiệp, chưa làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao; khiếu kiện về đất đai vẫn còn bức xúc ở nhiều địa phương; xuất hiện tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, trì trệ trong giải quyết công việc sau thanh tra, kiểm tra...
Đối với hình thức xem xét trả lời chất vấn: Thực tiễn cho thấy, các khóa gần đây, giám sát bằng hình thức chất vấn thường mang lại hiệu quả cao vì trách nhiệm ở những lĩnh vực được chất vấn được "cột chặt" với từng người bị chất vấn. Đánh giá hiệu quả của trả lời chất vấn cũng là đánh giá đối với cá nhân từng người trả lời chất vấn.
Đối với hình thức giám sát chuyên đề: Lấy ví dụ cụ thể về giám sát chuyên đề "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến hết năm 2018" được tiến hành tại Kỳ họp thứ Bảy, Quốc hội Khóa XIV. Đối tượng bị giám sát của chuyên đề này rất rộng (nói gọn lại là cơ quan hành pháp, gồm Chính phủ và chính quyền các địa phương) nên Đoàn giám sát đã làm việc với Chính phủ, 7 bộ, ngành, cơ quan Trung ương và 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đất đai nói chung, đất đai đô thị nói riêng là những vấn đề vô cùng phức tạp. Đánh giá hiệu quả giám sát chuyên đề này cũng cực kỳ phức tạp. Bởi vì nhiều năm nay, trong tổng số đơn, thư khiếu kiện của cả nước thì khiếu kiện về lĩnh vực đất đai chiếm đến 70%. Hiệu quả lớn nhất của giám sát chuyên đề này là Đoàn giám sát đã “chụp ảnh toàn thân” hiện trạng quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đô thị với “hình ảnh” rất chi tiết và sắc nét. Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề này (thông qua ngày 14.6.2019) chỉ rõ: Chất lượng quy hoạch thấp, thiếu đồng bộ, thiếu tầm nhìn dài hạn, chưa theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội và tốc độ đô thị hóa, dẫn tới quy hoạch nhiều lần, có những trường hợp điều chỉnh còn tùy tiện, theo lợi ích của nhà đầu tư... Việc giao đất, cho thuê đất thông qua phương thức đấu thầu dự án có sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất có những trường hợp chưa tuân thủ quy trình và quy định của pháp luật, nhiều trường hợp chỉ định nhà đầu tư, chuyển mục đích sử dụng trái phép...
Tuy nhiên, việc khắc phục những yếu kém như thế nào, tình hình được cải thiện ra sao từ sau giám sát đến nay... thì chưa thật sự rõ. Mặc dù vậy, chưa đủ điều kiện để đánh giá thấp hiệu quả đối với đối tượng chịu sự giám sát, vì quan trọng nhất là kết quả khắc phục thiếu sót, khuyết điểm theo 15 nhiệm vụ mà Quốc hội giao cho Chính phủ thực hiện và thời hạn báo cáo kết quả là tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XIV (tháng 10.2020), nhưng chưa thực hiện được, có lẽ sẽ báo cáo khi trình dự án Luật Đất đai (sửa đổi) năm 2013.
Đối với hình thức lấy phiếu tín nhiệm: Qua 3 lần lấy phiếu tín nhiệm của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, XIV cho thấy, nếu lần lấy phiếu tín nhiệm thứ nhất chỉ có 7 chức danh thuộc nhóm tín nhiệm cao (từ 300 phiếu trở lên) thì lần thứ 2 có tới 19 chức danh và lần thứ 3 là 23 chức danh. Trong đó, các chức danh của Chính phủ từ một chức danh lên 7 và 10. Điều này ghi nhận sự tiến bộ rõ nét trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của các chức danh trong Chính phủ... Nhìn chung, tất cả các chức danh đều được nâng cao mức độ tín nhiệm; không có chức danh nào lần sau thấp hơn lần trước.
Trong cả 3 lần lấy phiếu tín nhiệm đều không xảy ra tình trạng người được lấy phiếu bị dư luận đánh giá là yếu kém mà khi lấy phiếu lại được nhiều phiếu tín nhiệm cao. Và ngược lại cũng không xảy ra tình trạng người được dư luận công nhận là trí tuệ, làm việc có hiệu quả mà khi lấy phiếu lại bị nhiều phiếu tín nhiệm thấp. Với những số liệu kết quả 3 lần lấy phiếu tín nhiệm, có thể đánh giá hiệu quả chung của hình thức giám sát lấy phiếu tín nhiệm là khá tốt, đạt trên 80% yêu cầu.
Tuy nhiên, hiệu quả lấy phiếu tín nhiệm cũng có những điều còn trăn trở. Một là, bản kê khai tài sản của các chức danh chưa có người hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận là đúng đắn, chính xác, mà đây là một tài liệu phản ánh mức độ trung thực của chức danh được lấy phiếu. Hai là, do tính chất và vị trí các chức danh khác nhau, những chức danh thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng thì thường được đánh giá là năng nổ, gần dân, trách nhiệm hơn. Ngược lại, những chức danh ít có điều kiện như thế, lặng lẽ với công việc, đôi khi khối lượng công việc rất lớn, “cày” cả ngày, cả đêm... có khi lại bị đánh giá thấp, hoặc không đủ thông tin để đại biểu nhận xét. Điều này cũng ảnh hưởng tới việc đánh giá.