Ba trụ cột để phát triển khoa học công nghệ
Dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là một trong 3 đột phá chiến lược cho giai đoạn 2021 - 2030. Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ NGUYỄN QUÂN cho rằng, điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình mới của Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4. Tuy vậy, để khoa học công nghệ đóng vai trò chủ yếu đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, cần giải quyết 3 trụ cột về đầu tư, tài chính, đãi ngộ.
Bước tiến phù hợp bối cảnh mới
- Dự thảo Văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định nhân lực, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là một trong 3 đột phá chiến lược cho giai đoạn 2021 - 2030. Ông nghĩ sao?
- Đây là bước tiến phù hợp với bối cảnh hiện nay khi chúng ta đang trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 với cốt lõi là chuyển đổi số quốc gia - điều mà trong Chiến lược của 10 năm trước không đề cập tới. Chuyển đổi số quốc gia là nội dung quan trọng của khoa học công nghệ Việt Nam cũng như toàn thế giới trong giai đoạn tới.

Thực tế, Bộ Chính trị cùng Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo kịp thời, như Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27.9.2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0; Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3.6.2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; mới đây nhất Thủ tướng ban hành Chiến lược quốc gia về Cách mạng Công nghiệp 4.0 đến năm 2030.
Như vậy, ngay từ đầu nhiệm kỳ của giai đoạn 2021 - 2030 đã có những chỉ đạo mang tính nền tảng về chuyển đổi số quốc gia, cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước. Vấn đề còn lại là thể chế hóa và triển khai thực hiện.

Vẫn thiếu hành lang pháp lý
- Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được chú trọng song vẫn chưa thực sự trở thành động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Theo ông, có thể lý giải thế nào?
- 10 năm qua, chúng ta có thuận lợi là Quốc hội đã đặt nền tảng pháp lý khi thông qua các luật liên quan khoa học công nghệ. Tuy nhiên, các văn bản dưới luật để cụ thể hóa còn thiếu rất nhiều.
Chẳng hạn, Luật Công nghệ cao quy định Chính phủ sớm thí điểm một quỹ đầu tư mạo hiểm có cả nguồn vốn ngân sách lẫn xã hội nhưng đến nay vẫn chưa làm được. Hay thực hiện Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho các doanh nghiệp này khởi nghiệp sáng tạo song hiện chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về việc lập quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo (đầu tư mạo hiểm).
Vì thế, dù nhiều doanh nghiệp đã thành lập quỹ này song hoạt động không đột phá, luôn trong tình cảnh “dò đá qua sông” vừa làm vừa thăm dò, điều chỉnh. Trong khi đó, hầu hết tập đoàn công nghệ lớn ở quốc gia phát triển đều được hình thành từ quỹ này.
- Muốn phát triển khoa học công nghệ không thể thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Ông đánh giá thế nào về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay?
- Nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết định trong phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt trong Cách mạng Công nghiệp 4.0. Tuy nhiên, dù chúng ta rất nỗ lực song chương trình đào tạo chưa tiệm cận trình độ quốc tế. Thứ nữa, nguồn nhân lực liên quan công nghệ thông tin dù đông đảo song nhân lực chuyển đổi số quốc gia với cốt lõi là Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data)… đang thiếu nhiều và phải chờ một thời gian nữa mới có đội ngũ trình độ tiệm cận thông lệ quốc tế.
Đặc biệt, chúng ta đang rất thiếu nhà khoa học đầu ngành. Chúng ta cũng chưa hình thành đội ngũ chuyên gia đạt trình độ quốc tế để dẫn dắt nền khoa học.
- Vì sao vậy, khi chúng ta đã có cơ chế trọng dụng và đãi ngộ, thưa ông?
- Đúng là dù Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 cũng như Nghị định số 40/2014/NĐ-CP quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ song cho đến nay gần như chưa ai được thụ hưởng. Vướng mắc chủ yếu do bộ máy hành chính quản lý chưa thấu hiểu, chưa quan tâm áp dụng chính sách. Thêm nữa, kinh phí thực hiện các đề tài nghiên cứu phải tuân thủ Luật Ngân sách nhà nước, trong khi đó nhiều quy định lạc hậu khiến việc thụ hưởng rất khó khăn.
Bên cạnh đó, chính sách tiền lương và phụ cấp với người làm khoa học công nghệ thấp hơn mặt bằng chung xã hội, ngoài lương cơ bản không có phụ cấp nào, ngoại trừ làm trong lĩnh vực giáo dục hoặc y tế. Vì thế, việc đòi hỏi họ toàn tâm toàn ý cho nghiên cứu là vấn đề không đơn giản.
Không nên chuyển đổi số đồng loạt
- Trong thời gian tới, theo ông, làm thế nào để đất nước phát triển nhanh và bền vững chủ yếu dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số?
- Muốn vậy, phải giải quyết 3 trụ cột. Thứ nhất là đầu tư. Nhà nước cần giữ mức đầu tư cho khoa học công nghệ bằng 2% tổng chi ngân sách hằng năm theo Luật Khoa học và công nghệ. Quốc hội nên có ý kiến với Chính phủ khi xây dựng dự toán ngân sách hằng năm. Đồng thời, phải có chính sách huy động nguồn lực từ xã hội đầu tư cho khoa học công nghệ. Ở nhiều nước, đầu tư xã hội nhiều gấp 3 - 4 lần đầu tư của Nhà nước, thậm chí gấp hàng chục lần. Cụ thể, nên bỏ quy định mức trần 10% lợi nhuận trước thuế đầu tư cho khoa học công nghệ vì đang “bó chân” doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần thay đổi cơ chế quản lý quỹ khoa học công nghệ do doanh nghiệp thành lập, thay vì quản lý như đối với nguồn ngân sách hiện nay.
Thứ hai là cơ chế tài chính. Cần sử dụng cơ chế quỹ để cấp kinh phí cho các đề tài, dự án thay vì buộc nhà khoa học phải tính toán sử dụng bao nhiêu ngày công, bao nhiêu thí nghiệm, vật liệu… (giống như cấp kinh phí cho đầu tư xây dựng cơ bản). Theo đó, nên cấp phát ngay khi nhà khoa học có ý tưởng, nguyện vọng nghiên cứu, được hội đồng tư vấn thẩm định và cấp có thẩm quyền phê duyệt; quyết toán theo hợp đồng chứ không phải theo năm tài chính.
Thứ ba, có chính sách đãi ngộ với cán bộ khoa học để bảo đảm thu nhập ít nhất bằng mặt bằng chung. Bên cạnh đó, cần có cơ chế đặc biệt cho nhà khoa học được giao làm tổng công trình sư, chủ nhiệm đề tài quốc gia quyền sử dụng bất cứ phòng thí nghiệm nào, chủ động điều động nhân sự tham gia… như cách mà nhiều nước đang làm.
- Vậy còn với chuyển đổi số quốc gia, theo ông nên làm thế nào?
- Chuyển đổi số quốc gia là tất yếu song không nên thực hiện đồng loạt. Theo đó, phải chọn ra những doanh nghiệp sản xuất có năng lực và sản phẩm cạnh tranh được với thế giới để chuyển đổi số và đổi mới công nghệ trước, bằng cách vận động họ tự đầu tư. Nhà nước phải hỗ trợ tối đa thông qua ưu đãi thuế, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp. Đặc biệt, phải phát huy vai trò đầu tàu đổi mới công nghệ của khối doanh nghiệp nhà nước bởi họ có nguồn lực, nhưng cần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng.
- Trân trọng cảm ơn ông!