Sớm xây dựng khung pháp để lý kiểm soát rủi ro
Sáng 9.12, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh tổ chức diễn đàn “Xây dựng thương hiệu quốc gia cho công nghệ tài chính”. Tại diễn đàn, các chuyên gia cho rằng, công nghệ tài chính (fintech) là trọng tâm cần được đưa vào chiến lược xây dựng, phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo kiểm soát được các rủi ro.
Đạt mức tăng trưởng ấn tượng
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao, thương mại với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương có quy mô lớn, dẫn đến nhu cầu gây dựng thương hiệu quốc gia của các tổ chức tài chính để vươn ra lãnh thổ, mở rộng phạm vi hoạt động và tạo dựng thương hiệu quốc tế ngày càng cao. Đặc biệt trong bối cảnh các ngân hàng tại Việt Nam gấp rút thực hiện triển khai toàn diện áp dụng các tiêu chuẩn hiệp ước Basel II tại Việt Nam hướng tới hài hòa các dịch vụ ngân hàng với thế giới.

Chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, công nghệ thông tin 4.0 mở ra một kỷ nguyên mới cho lĩnh vực tài chính ngân hàng, như một chiếc đũa thần kết nối các thành phần kinh tế lại với nhau. Bên cạnh ngân hàng truyền thống thì mô hình ngân hàng ảo, ngân hàng kỹ thuật số mà các giao dịch được thực hiện trên không gian mạng đang dần phổ biến và thông dụng hơn. Ngoài ra còn là những trung gian tài chính ảo, hay còn gọi là các trung gian tài chính kỹ thuật số ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính.
Cũng theo ông Hiếu, về thực chất, các công ty fintech không phải là những định chế tài chính, nhưng họ là những trung gian tài chính kết nối các thành phần kinh tế với nhau để đáp ứng những nhu cầu tài chính như đầu tư, vay mượn, tài trợ. Điển hình cho những hoạt động của các công ty fintech là làm trung gian kết nối những hoạt động thanh toán, đầu tư, cho vay, qua một nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại.
Theo Nguyên Viện phó Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Phạm Xuân Hòe, những tác động của fintech lên chính sách tiền tệ của Việt Nam là không đáng kể nhưng sẽ giúp cải thiện hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Khả năng tiếp cận tài chính của người dùng cũng được nâng cao thông qua các kênh số hóa. Ngoài ra còn gia tăng cạnh tranh của thị trường dịch vụ tài chính ngân hàng, tính ổn định và lành mạnh của hệ thống tài chính.
Chia sẻ về thực trạng hiện nay, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, TS. Cấn Văn Lực cho biết, fintech tại Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng ấn tượng. Theo đó, năm 2017 Việt Nam có 74 công ty và lên gần 140 công ty vào cuối năm 2019. Những lĩnh vực được các công ty fintech đầu tư chủ yếu là thanh toán, gọi vốn cộng đồng, blockchain, cho vay, quản lý tài sản. Trong đó, chiếm tỉ lệ lớn nhất là lĩnh vực thanh toán với 47% số công ty và 98% vốn đầu tư vào fintech Việt Nam năm 2019; cho vay ngang hàng xếp thứ hai với 20 công ty. Tuy nhiên, thị trường Việt Nam vẫn chưa phát triển bằng các nước trong khu vực ASEAN. Theo khảo sát năm 2019 của Ngân hàng UOB, Singapore dẫn đầu danh sách với 1157 công ty (chiếm 45% trụ sở các fintech tại các nước), Indonesia 511 công ty, Malaysia 376 công ty, còn Việt Nam chỉ khiêm tốn dừng lại ở con số 136 công ty.
Các chuyên gia cho rằng, với những tiềm năng sẵn có của một nền kinh tế hội nhập sâu rộng, tương lai của fintech tại Việt Nam thời gian tới sẽ rất rộng mở. Việt Nam được nhận định có nhiều lợi thế để phát triển fintech như thị trường nội địa lớn, còn nhiều dư địa phát triển; dân số tương đối trẻ và lượng người sử dụng điện thoại thông minh cao. Kinh tế Việt Nam cũng đang trên đà tăng trưởng khá với dự báo 6,5 – 7% giai đoạn 2021 – 2030, thu nhập bình quân đầu người tăng 6%/năm; thương mại điện tử tăng nhanh, khoảng 25 – 30% trong 5 năm tới. Các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, cụ thể, hệ sinh thái khởi nghiệp fintech Việt Nam hiện có khoảng 166 công ty, tăng 22% so với năm 2019.
Còn nhiều thách thức và rủi ro
Theo nhận định của ông Phạm Xuân Hòe, fintech đã đưa đến sự thay đổi lớn về hành vi người tiêu dùng tài chính. Bên cạnh sự tăng trưởng mạnh mẽ, fintech tại Việt Nam vẫn còn phải vượt qua nhiều thách thức và tiềm ẩn những rủi ro.
Đồng ý kiến, TS. Cấn Văn Lực cho biết, về vấn đề dữ liệu, Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia. Dữ liệu về doanh nghiệp còn phân tán, cập nhật thiếu, không có sự đồng bộ. Liên quan đến chính sách pháp lý, văn hóa, ông Lực cho rằng còn hay thay đổi, thiếu tính nhất quán. Quy định cũng như tiêu chuẩn, chuẩn mực chung về hoạt động fintech chưa được ban hành. Văn hóa giấy tờ, thói quen dùng tiền mặt tại Việt Nam còn nặng nề; văn hóa chấp nhận thất bại rất hạn chế.
Đặc biệt, các chuyên gia nhấn mạnh rằng rủi ro an ninh mạng của Việt Nam vẫn luôn ở mức cao trong khi nhận thức của người dân và các giải pháp vẫn còn hạn chế. Nếu buông lỏng quản lý sẽ gây ra hậu quả khôn lường như chiêu trò rửa tiền, đánh cắp thông tin người dùng, xâm phạm an toàn không gian mạng quốc gia,… “Trong bối cảnh dịch bệnh có thể trở lại bất cứ lúc nào và tác động đến các hoạt động kinh tế, làm tăng nhu cầu vay mượn của các thành phần kinh tế, một khung pháp lý về vai trò của các fintech trong lĩnh vực tài chính ngân hàng là vô cùng cần thiết”, TS. Nguyễn Trí Hiếu bày tỏ.
Do đó, tại diễn đàn, các chuyên gia đề xuất Việt Nam nên sớm có quy định về liên kết, hệ sinh thái giữa ngân hàng, fintech, bên thứ 3 và các chuỗi cửa hàng, trang thương mại điện tử. Cơ quan quản lý cần quan tâm xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý hoạt động fintech theo cách tiếp cận mở nhưng kiểm soát được rủi ro; ban hành các tiêu chuẩn, chuẩn mực chung; có cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu ở các cấp độ khác nhau. Hơn hết là chú trọng nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông và môi trường kiểm soát rủi ro; đẩy nhanh hoàn thiện, chuẩn hóa cơ sở dữ liệu định danh cá nhân quốc gia và dữ liệu doanh nghiệp.