Quốc hội tiếp tục chất vấn và trả lời chất vấn

PV 06/11/2020 14:13

14h chiều nay, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ Mười, dưới sự điều hành của Chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân, Quốc hội tiếp tục phiên chất vấn và trả lời chất vấn.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về phòng, chống thiên tai
Về an toàn hồ đập, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết, hiện nước ta có trên 7.500 hồ thủy lợi, thủy điện thì đã đưa vào vận hành khai thác với dung tích khoảng 70 tỷ mét khối nước, trong đó có 437 hồ thủy điện - thủy lợi.

Về tác động tích cực, theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, những năm qua, các hồ, đập thủy lợi, thủy điện có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước, đáp ứng nguồn nước ngọt cho sản xuất và sinh hoạt của người dân; Góp phần cắt lũ, đặc biệt là các hồ lớn, các hồ thủy điện: Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Kẻ Gỗ, Sông Tranh... Các hồ thủy lợi, thủy điện vừa và nhỏ cũng tham gia cắt lũ, trừ trường hợp lũ lớn phải xả lũ và thường xả tối đa bằng với lưu lượng lũ về hồ; điều tiết nước cho mùa cạn; tạo nguồn điện rất lớn. Tổng công suất thủy điện tiềm năng của nước ta là khoảng 36.000 MW, tổng công suất khai thác kỹ thuật khoảng 28.000 MW thì hiện nay chúng ta đã khai thác được 20.000 MW, chiếm khoảng 30 % tổng công suất nguồn điện.

Ảnh: Quang Khánh
Ảnh: Quang Khánh

Trong đó, nguồn thủy điện là nguồn năng lượng sạch, giá rẻ, vận hành thuận lợi và là nguồn nội lực tài nguyên của đất nước. Khác với các nguồn điện than, khí hóa lỏng, chúng ta phải phụ thuộc vào nguồn năng lượng sơ cấp nước ngoài. Do đó các công trình thủy lợi, thủy điện có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước.

“Tuy nhiên, để xây dựng công trình hồ, đập thủy lợi, thuỷ điện cũng có tác động tiêu cực đến môi trường, vì các công trình hồ thủy lợi, thủy điện đa số đều xây dựng ở khu vực trung du, miền núi nên sẽ ảnh hưởng đến diện tích rừng. Đồng thời việc xây dựng các công trình còn tác động đến sự ổn định của kết cấu đất đá nên cũng có thể tác động đến sạt lở đất”, Phó Thủ tướng thừa nhận.

Về nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh, thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến phòng, chống thiên tai; đặc biệt là tập trung xây dựng các nghị định hướng dẫn Luật Phòng, chống thiên tai. Rà soát lại các kịch bản biến đổi khí hậu để từ đó làm cơ sở xây dựng các phương án ứng phó.

Thứ hai, tập trung xây dựng chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021 – 2030; xây dựng các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch đô thị, quy hoạch tỉnh gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống phòng, chống thiên tai. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch, lựa chọn các dự án ưu tiên để đầu tư trong giai đoạn đảm bảo mục tiêu đa mục tiêu, gắn phòng, chống thiên tai.

Thứ ba, xây dựng các bản đồ cảnh báo khu vực có nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nguy hiểm với tỷ lệ thích hợp. Vấn đề này đã được chỉ đạo, được triển khai, nhưng mới chỉ xây dựng được bản đồ với tỷ lệ lớn, chưa xác định chính xác các điểm nguy hiểm để sơ tán dân.

Trên cơ sở bản đồ, sẽ quy hoạch, phân bổ lại, bố trí lại dân cư và có những chủ trương đầu tư để đảm bảo an toàn cho người dân. Đồng thời xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để kịp thời sơ tán khẩn cấp trước khi có sạt lở đất, lũ quét. Đây là kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ….

Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống thiên tai như các công trình giao thông miền núi, các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện, đặc biệt là công trình thủy điện nhỏ. Yêu cầu phải đảm bảo đa mục tiêu, hạn chế tối đa việc sử dụng đất rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, thực hiện nghiêm việc trồng rừng thay thế.

Thứ năm, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn các công trình hồ, đập đê điều, đầu tư chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Rà soát, sửa chữa, cải tạo công trình giao thông gây cản trở thoát lũ, đầu tư nâng cấp các khu neo đậu tàu thuyền đảm bảo tránh lũ an toàn.

Thứ sáu, tiếp tục đầu tư chương trình nhà vượt lũ của các tỉnh duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Trong thời gian tới, Quốc hội cần bố trí cụ thể nguồn lực trong trung hạn 2021 – 2025 để triển khai thực hiện.

Thứ bảy, nâng cao năng lực của các lực lượng tham gia phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, trong đó tăng cường tính chuyên nghiệp Trung ương đến cơ sở. Kinh nghiệp tại Trà Leng là lực lượng tại chỗ đóng vai trò rất quan trọng. Đầu tư các phương tiện, thiết bị chuyên dùng phục vụ phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Thường xuyên tổ chức diễn tập phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Quán triệt nghiêm túc phương châm 4 tại chỗ trong phòng, chống gia tìm kiếm cứu nạn.

Thứ tám, cần lồng ghép đầu tư công tác phòng, chống thiên tai trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương.

Phó Thủ tướng cũng cho biết, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội về nhu cầu chi ngân sách cho công tác phòng, chống thiên tai.

"Tôi quan tâm hơn đến nguyên nhân chủ quan của con người"

Cuối phiên chất vấn và trả lời chất vấn chiều nay, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã trả lời chất vấn của các ĐBQH về một số vấn đề thuộc thẩm quyền.

Về nguyên nhân, giải pháp ứng phó thiên tai, Phó Thủ tướng cho biết, đợt mưa lũ kéo dài cùng với cơn bão số 9 – cơn bão mạnh nhất trong 20 năm trở lại đây - vừa xảy ra ở các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại nặng nề về tính mạng và tài sản của người nhân và của nhà nước. Đợt thiên tai này đã được sự quan tâm chia sẻ của cử tri và nhân dân cả nước, đặc biệt là ý kiến chia sẻ của nhiều ĐBQH về những nỗ lực của hệ thống chính quyền trong: phòng, chống thiên tai; những tồn tại và nguyên nhân, giải pháp cần phải làm trong thời gian tới để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân.

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về một số vấn đề thuộc thẩm quyền Ảnh: Quang Khánh
Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về một số vấn đề thuộc thẩm quyền
Ảnh: Quang Khánh

Phó Thủ tướng chỉ rõ, hiện nay, tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai dị thường, đặc biệt là bão lũ và sạt lở đất đang là thách thức lớn với hầu hết các quốc gia trên thế giới mà trong đó châu Á là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nhật Bản, một đất nước phát triển nhưng mà số vụ mưa lũ, gây sạt lở đất hàng năm trong giai đoạn vừa qua là khoảng 150 nghìn lượt/năm, tăng 1,5 lần so với giai đoạn trước (giai đoạn 2001-2010). Mưa lũ, sạt lở đất đá đã gây thiệt hại rất nặng nề về người, tài sản ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippin,... Ở nước ta, mưa lũ, sạt lở đất ở nhiều nơi.

“Nguyên nhân chính của sạt lở đất, các nhà khoa học, các ĐBQH đã trả lời. Tôi quan tâm hơn đến nguyên nhân chủ quan của con người”, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nói.  

Trước hết về rừng, Phó Thủ tướng cho biết, trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển kinh tế rừng thì rừng Việt Nam đã phục hồi nhanh chóng. Năm 1945, rừng Việt Nam chiếm khoảng 43% thì đến năm 1995 chỉ còn 28%. Nhưng đến nay, độ che phủ rừng của Việt Nam đã đạt trên 41% và đứng thứ 50/193 quốc gia và vùng lãnh thổ; cao hơn, độ che phủ rừng của một số nước trong khu vực (Trung Quốc 28%, Thái Lan 21%,...) và cao hơn nhiều mức bình quân che phủ rừng của thế giới xấp xỉ 3%.

Tuy nhiên, Phó Thủ tướng thừa nhận, chất lượng rừng của nước ta còn thấp. Nguyên nhân là bởi thời gian dài rừng tự nhiên bị phá để phát triển kinh tế. Rừng mới, chất lượng rừng không cao. Tình trạng phá rừng để làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp, phát triển kinh tế vẫn chưa được ngăn chặn triệt để và có hiệu quả, đặc biệt là tình trạng phá rừng, lấy gỗ, xây nhà... cũng ảnh hưởng đến rừng, chưa được kiểm soát. Việc trồng rừng thay thế chưa được kiểm soát chặt chẽ. “Từ đó đã ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường, giữ nước ngọt và cũng là một nhân tố gây sạt lở đất khi có mưa lũ”, ông Dũng cho biết.

Cùng với đó là do việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tại các khu vực miền núi như các công trình giao thông, đường dây tải điện, hệ thống đường ống,... đã làm thay đổi địa hình, tác động tới ổn định kết cấu địa chất và dễ gây sạt lở đất. Các tuyến đường giao thông miền núi khi đi kiểm tra tìm kiếm cứu nạn thì tôi thấy liên tục bị sạt lở. Việc xây dựng các công trình giao thông, các công trình xây dựng khác cũng gây cản trở thoát lũ làm cho lũ dâng cao.

Việc xây dựng các công trình nhà ở, các công trình bệnh viện, trường học, công sở, các điểm dân cư tự phát… tại khu vực miền núi thiếu nghiên cứu yếu tố địa chất cũng là nhân tố tác động làm sạt lở đất đá trong mùa mưa lũ.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng chỉ rõ, việc xây dựng các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện… nếu không được kiểm soát chặt chẽ từ khâu quy hoạch, lập dự án, đánh giá tác động môi trường, cho đến khâu đầu tư xây dựng và quản lý vận hành sẽ tác động rất lớn đến mưa lũ, sạt lở đất và đe dọa đến an toàn vùng hạ du.

“Con sâu bỏ rầu nồi canh” nhưng Thủ tướng cũng đã chỉ đạo chấn chỉnh

Trả lời chất vấn của các ĐBQH về cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử... Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết, ngay từ đầu nhiệm kỳ Khóa XIV, Thủ tướng đã đưa ra thông điệp phải xây dựng Chính phủ kiến tạo, một Chính phủ hành động, một Chính phủ liêm chính, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội 
Ảnh: Quang Khánh

Về Chính phủ hành động, từ tháng 4.2016 đến nay, Thủ tướng đã giao cho bộ, ngành địa phương, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 65.595 nhiệm vụ, đã hoàn thành 48.406 nhiệm vụ và chưa hoàn thành 15.953 nhiệm vụ nhưng vẫn đang trong thời hạn được giao, chỉ có 1.036 nhiệm vụ quá hạn chưa hoàn thành, chiếm 1,8%. Như vậy, nhiệm vụ có thời hạn đã giảm 23,4% là điểm rất tốt.

Về Chính phủ phục vụ thì đầu năm 2018, Thủ tướng đã ban hành Nghị định 61 về thực hiện thủ tục hành chính, một cửa liên thông. Đến nay 100% bộ, ngành, địa phương đã có thủ tục một cửa để giải quyết thủ tục hành chính và đã có 58/63 địa phương thành lập trung tâm hành chính công. Như vậy có thể nói, thủ tục hành chính được giải quyết theo cơ chế một cửa và liên thông. Điểm sáng như ở Quảng Ninh, trung tâm hành chính công ở cấp tỉnh, cấp xã, cấp huyện liên thông, nhận hồ sơ tại chỗ, vấn đề liên kết các cơ quan trong địa phương để thẩm định hồ sơ, giải quyết hồ sơ và trả hồ sơ với dân, chỉ đến 1 cửa để nhận hồ sơ và nhận kết quả. Đến nay rất nhiều địa phương đã tích cực trong việc này.

Nhiều Bộ cũng đi tiên phong trong vấn đề này, đặc biệt là Bộ Tài chính, cơ quan thuế, hải quan, kho bạc nhà nước hay Bộ Công thương, Bảo hiểm Xã hội, Tập đoàn Điện lực Việt Nam là đơn vị tiên phong trong cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công.

Tuy nhiên, Bộ trưởng Mai Tiến Dũng cũng thừa nhận phản ánh của các đại biểu về việc còn có những hạn chế nhất định, đặc biệt là tình trạng chậm muộn và một số tiêu cực để người dân phải đi lại nhiều lần, chờ đợi không biết hồ sơ đã được giải quyết đến đâu... Các phiên họp Chính phủ thì Văn phòng Chính phủ đã tổng hợp báo cáo về những vấn đề này. Theo Bộ trưởng Dũng, có thể nói, những trường hợp này rất ít, mang tính chất “con sâu bỏ rầu nồi canh” nhưng Thủ tướng cũng đã giao bộ, ngành, địa phương chấn chỉnh.

Về kết nối và chia sẻ dữ liệu, Bộ trưởng Dũng thừa nhận còn hạn chế. Hạ tầng thông tin chưa đáp ứng yêu cầu công việc, yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin. Từ đó dẫn đến việc người dân ít sử dụng dịch vụ công. Đây là yếu tố rất khó khăn cho người dân, đặc biệt là thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp.  Khi đưa lên dịch vụ công nhưng không tái cấu trúc lại quy trình tạo ra quy trình không cải cách.

Sẽ rà soát từng mét vuông đất nếu có chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên, rừng đặc dụng

ĐBQH Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai) chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về thủy điện. Nhắc lại ý kiến của Bộ trưởng cho rằng, thủy điện nhỏ không có lỗi trong vụ bão lũ, sạt lở miền Trung những ngày qua mà là do trời mưa, địa chất bị đứt gẫy, đại biểu đặt câu hỏi: Thời gian tới, Bộ trưởng vẫn tiếp tục ủng hộ việc xây dựng, phát triển thủy điện nhỏ đúng không? Theo Bộ trưởng, ông trời, mẹ thiên nhiên và rừng có quan hệ gì với thực trạng bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam. Với tư cách chuyên gia, đơn vị tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng thấy mình có trách nhiệm như thế nào với thực trạng đó?

ĐBQH Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Ksor H’Bơ Khăp (Gia Lai)
Ảnh: Quang Khánh

Đại biểu Ksor H’Bơ Khăp cũng nhắc lại quan điểm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc về việc Tây nguyên không thể trở thành sa mạc mà phải phủ rừng xanh bạt ngàn, cần xem xét vấn đề phát triển thủy điện nhỏ để hạn chế phá rừng. “Khi nghe được, tôi thực sự xúc động và trân trọng trăn trở đó của Thủ tướng. Xin Thủ tướng cho biết, việc phá rừng đúng quy định, quy trình thông qua các dự án thì phải chỉ mặt, điểm tên cá nhân, tổ chức nào hay cứ bảo do Quốc hội bấm nút là được? Thủ tướng có ủng hộ văn hóa từ chức không? Công tác cán bộ của ta nên đưa vào văn hóa này vào chưa?”, đại biểu Ksor H’Bơ Khăp gửi chất vấn đến Thủ tướng.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà khẳng định, ông không nói thủy điện là nguyên nhân hay không phải là nguyên nhân gây ra bão lũ, sạt lở miền Trung những ngày vừa qua mà muốn nói con người là nguyên nhân khi quyết định công trình thủy điện thân thiện với môi trường hay không. Như nhiều quốc gia văn minh khác, ví dụ Na Uy có rất nhiều thủy điện, nhưng họ dựa trên thế năng tự nhiên, còn nếu chúng ta tận dụng mọi cơ hội để khai thác thủy điện và chúng ta chấp nhận phá rừng để làm thủy điện thì khi đó nguyên nhân là do con người.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà
Ảnh: Quang Khánh

“Đại biểu nói với tôi rằng rừng quan trọng như thế nào? Tôi nghĩ rừng còn quan trọng hơn cả trời, bởi vì tôi thở không khí từ việc lọc khí CO2 và thải ra khí O2 của rừng. Rừng là nơi cung cấp 70% các tài nguyên và cung cấp cho cuộc sống con người. Rừng là những gì hết sức thiêng liêng, rừng sinh thủy, rừng chứa chúng ta vào, che chở cho bộ đội trong chiến tranh… Nên ở đây tôi muốn nói rằng, thủy điện không phải là nguyên nhân mà thủy điện là hậu quả do việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không dựa vào quy luật tự nhiên. Việc này thì chúng ta có thể khắc phục được”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nhấn mạnh.

Bộ trưởng Hà cũng cho rằng, mất rừng không có nghĩa là nghĩ đến thủy điện. Mất rừng còn do chúng ta có tư duy sai trái: trong nhà dùng toàn đồ gỗ, sử dụng các động vật hoang dã… Thủy điện không phải nguyên nhân chính gây ra mất rừng. Nguyên nhân chính là người ta đã thay thế rừng tự nhiên bằng những cánh rừng sản xuất bình thường. Khi không phù hợp với hệ sinh thái đó thì hệ sinh thái rừng nông nghiệp, lâm nghiệp đó cũng không có giá trị. Cho nên, rừng tự nhiên hết sức quan trọng.  

“Chúng ta phải hiểu mất rừng còn rất nhiều nguyên nhân khác mà chúng ta phải quản lý. Với tư cách là người làm quản lý môi trường, chúng tôi sẽ cùng với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo Quốc hội xem xét, rà soát từng mét vuông đất nếu có việc chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên và rừng phòng hộ đặc dụng. Sắp tới, đối với rừng phòng hộ đặc dụng, những nơi nào không còn rừng nhưng chức năng của nó là phòng hộ và bảo vệ con người thì chúng ta phải thu hồi lại rừng. Và phải phục hồi rừng nguyên sinh đúng với bản chất tự nhiên”, Bộ trưởng Hà cam kết.

Cái gốc vẫn phải là tăng trưởng kinh tế

Trả lời chất vấn của các ĐBQH Phùng Thị Thường (Vĩnh Phúc), ĐBQH Hồ Thị Kim Ngân (Bắc Kạn) về việc làm, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, trước ảnh hưởng rất lớn của đại dịch Covid-19, đến hết năm 2020, chúng ta đã tạo việc làm cho 7,8 triệu lao động, lao động qua đào tạo đạt 64%, tỷ lệ thất nghiệp 2,48% trong quý III, đây là con số có thể chấp nhận được trong tình hình chung.

Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung
Ảnh: Quang Khánh

Về giải pháp tạo việc làm, theo Bộ trưởng Dung, trước hết, cái gốc vẫn phải là tăng trưởng kinh tế, phát triển được doanh nghiệp. Đây là chìa khóa tạo việc làm và giảm nghèo bền vững. Thứ hai là đào tạo và đào tạo lại, phải nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói chung. Chính phủ, Thủ tướng đã giao Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội xây dựng đề án này và sẽ trình vào đầu năm 2021.

Với các doanh nghiệp, Bộ trưởng Dung đề nghị phải tập trung nâng cao chất lượng quản trị, đổi mới công nghệ. Tăng cường dự báo, kết nối cung cầu lao động. Thời gian vừa qua, Chính phủ đã giao Bộ cùng với một số Bộ khác thực hiện. Tuy hiện nay mới dự báo chủ yếu là cung cầu ngắn hạn và chỉ ở một số lĩnh vực nhưng đã hiệu quả hơn, tốt hơn; tăng cường kết nối đào tạo với doanh nghiệp, vừa qua bước đầu đã có hiệu quả.

Viện kiểm sát luôn làm hết sức

Trả lời chất vấn của ĐBQH Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) về tỷ lệ giải quyết đơn kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn thấp, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí cho biết, trước hết là do tâm lý người phải thực hiện bản án phúc thẩm muốn xem xét lại; đây hầu hết là những vụ việc kéo dài, đã được giải quyết nhiều lần; quá trình thụ lý giải quyết vụ việc được kiến nghị thì thì ưu tiên tòa án được rút hồ sơ. Đối với các hành vi ngược đãi, xâm phạm quyền con người, ông Trí cho rằng, để giải quyết rốt ráo việc này thì không chỉ có một mình Viện kiểm sát mà đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan điều tra, công an, tư pháp... Viện Kiểm sát luôn làm hết sức khi giải quyết vụ án xâm hại gây bức xúc cho xã hội. 

Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí Ảnh: Quang Khánh
Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Lê Minh Trí
Ảnh: Quang Khánh

Văn bản của Bộ đúng hay sai?

 ĐBQH Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) chất vấn Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ về việc cần ban hành sớm Thông tư tháo gỡ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về việc giảng dạy văn hóa kiến thức trung học phổ thông trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

ĐBQH Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Nguyễn Thị Thu Dung (Thái Bình)
Ảnh: Quang Khánh

Trước đó, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ đã trả lời chất vấn của đại biểu Dung nêu rõ đã gửi văn bản tới Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đồng ý việc tiếp tục giảng dạy văn hóa kiến thức trung học phổ thông trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhưng theo ĐB Dung, Bộ trưởng Nhạ không đề cập đến việc giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Tháng 6.2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản số 672 không cho phép các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên tiếp tục được giảng dạy nữa. Chương trình giáo dục thường xuyên phải đưa về phối hợp với các trung tâm giáo dục thường xuyên gây khó khăn cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và khó khăn cho học sinh sáng học nghề, chiều thì tới các trung tâm giáo dục thường xuyên để học, đi lại rất xa và khó khăn. ĐB Dung đề nghị Bộ trưởng Nhạ làm rõ văn bản này là đúng hay sai và Bộ trưởng có giải pháp gì để giúp các cơ sở nghề nghiệp đủ điều kiện giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên này tiếp tục được giảng dạy và tháo gỡ khó khăn cho học sinh. Hiện nay, có rất nhiều cơ sở giáo dục thường xuyên không đủ điều kiện giảng dạy chương trình này.

Thu hồi tài sản là nhiệm vụ cả hệ thống chứ không riêng cơ quan thi hành án

Chất vấn Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long về thi hành án dân sự, ĐBQH Nguyễn Thị Thủy (Bắc Kạn) nêu rõ: trong nhiều năm qua, số án dân sự có điều kiện thi hành - số đã qua xác minh và xác định là có điều kiện thi hành - thì tỷ lệ thi hành xong đã thấp, mấy năm gần đây đạt khoảng 40%, năm nay đạt 40,1 %. ĐB Thủy đề nghị Bộ trưởng cho biết tỷ lệ thi hành án thấp như trên có nguyên nhân từ phía trách nhiệm của một số cơ quan thi hành án dân sự chưa cao hay không và nếu có giải pháp mà Bộ trưởng sẽ đề ra trong thời gian tới như thế nào?

Cũng liên quan đến công tác thi hành án, ĐBQH Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) tranh luận lại với phần trả lời của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trước đó. Ông Xuyền chi rõ, nội dung thi hành án hành chính ông đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Tư pháp tại Kỳ họp thứ Tư. Nhắc lại quan điểm của mình tại Kỳ họp thứ Tư, ông Xuyền đề nghị Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp nên thay đổi cơ chế thi hành án, phải có cơ chế trách nhiệm rõ ràng, không thể thỏa thuận giữa hai bên và nếu cứ để cơ chế thỏa thuận giữa hai bên và Chủ tịch UBND, chính quyền địa phương lại không tổ chức thi hành thì hậu quả của nó kéo dài và tồn tại của nó đến nay vẫn còn rất nhiều. Đơn cử, trong Báo cáo của Chính phủ thì đến nay vẫn còn 476 vụ/830 vụ tồn đọng vào năm 2020. Ngay từ Kỳ họp thứ Tư đã có 50 vụ tồn đọng lâu ngày, đến nay còn 4 vụ chưa thi hành. “Do vậy, tôi cũng đồng tình với quan điểm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là phải thay đổi cơ chế thi hành án đối với án hành chính. Tôi cũng muốn chuyển tới đồng chí Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Lý do nào từ đó đến nay chưa thấy có sự thay đổi này? Quan điểm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp như thế nào?”

ĐBQH Bùi Văn Xuyền (Thái Bình) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Bùi Văn Xuyền (Thái Bình)
Ảnh: Quang Khánh

Trả lời các câu hỏi về công tác thi hành án, Bộ trưởng Lê Thành Long cho biết, trong 5 năm qua, cơ quan thi hành án đã thi hành 3,5 triệu vụ án, thu lại 200.000 tỷ đồng, riêng năm 2020 là 54.000 tỷ đồng. Những khó khăn khách quan hiện nay là nhiều vụ án được tuyên số tiền phải thi hành rất lớn nhưng thực tế lại không có hoặc tiền, tài sản nằm ở nhiều nơi, có nhiều vấn đề tranh chấp pháp lý. Về chủ quan, hệ thống thi hành án chưa có sự tập trung chỉ đạo điều hành quyết liệt. Thời gian qua, Bộ Tư pháp đã thành lập tổ công tác đi làm việc từng nơi, từng địa phương, chọn một số vụ án trọng tâm, trọng điểm để xử lý. Theo ông Long, việc thu hồi tài sản là nhiệm vụ cả hệ thống chứ không riêng cơ quan thi hành án.

Đối với công tác theo dõi thi hành bản án hành chính, Bộ trưởng Lê Thành Long cho hay, tỷ lệ còn thấp, không được như ý muốn do những vướng mắc trong Luật Tố tụng hành chính, cơ chế thi hành và trách nhiệm cơ quan theo dõi.

Tranh luận lại với Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, ĐB Trần Thị Dung dẫn chứng, tại trang 17 báo cáo thẩm tra đầy đủ của Ủy ban Tư pháp, cũng như báo cáo do Tổng Thư ký Quốc hội trình bày đều nêu rõ, tỷ lệ thi hành án đạt mức thấp, thi hành án hành chính chỉ đạt 43,7%. Xu hướng là năm 2018 có 224 vụ chưa được thi hành, năm 2019 là 339 vụ, năm 2020 là 467 vụ. Trong phần lớn các vụ án này, có 467 vụ thuộc về trách nhiệm của Chủ tịch UBND  và UBND. Trong đó, vấn đề đặt ra là Tòa án đã ban hành khoảng 201 quyết định buộc thi hành án, cơ quan thi hành án ban hành 103 văn bản kiến nghị xử lý trách nhiệm với trường hợp vi phạm nghĩa vụ thi hành án, song đến nay chưa có trường hợp nào được xử lý. Ở đây, Tòa án nhân dân sau khi ban hành bản án vẫn ra quyết định yêu cầu thi hành án và cơ quan thi hành án dân sự cũng có trách nhiệm yêu cầu xử lý vấn đề này. “Như vậy, không phải không có cơ sở nên cần làm cho rõ ràng. Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp năm nào cũng đề cập vấn đề này”, đại biểu Dung nhấn mạnh.

Dự thảo văn bản pháp luật “nếu chưa chín thì chưa trình”

Trả lời chất vấn của ĐBQH Võ Thị Như Hoa (Đà Nẵng), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long nêu rõ, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ xác định thể chế là ưu tiên đầu tiên. Trong tất cả các phiên họp thường kỳ của Chính phủ và mỗi một năm có 2 cuộc họp chuyên đề về công tác thể chế thì đều thật sự ưu tiên cho công tác xây dựng thể chế. Mặc dù vậy, Bộ trưởng Long thừa nhận, tình trạng các văn bản chồng chéo, hết hiệu lực hoặc chưa phù hợp là một thực tế.

ĐBQH Võ Thị Như Hoa (Đà Nẵng) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Võ Thị Như Hoa (Đà Nẵng)
Ảnh: Quang Khánh

Bộ trưởng Long cho biết, rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên và thực hiện theo chuyên đề. Cụ thể, Chính phủ đã có báo cáo số 442 trình Quốc hội gồm 56 trang cùng 11 phụ lục. Đây là kết quả làm việc của tất cả các bộ ngành trong 6 tháng để gửi tới Quốc hội. Các số liệu cụ thể về những nhóm, những vấn đề chồng chéo thì đã được báo cáo rõ. 

Về nguyên nhân, Bộ trưởng Long xác định nguyên nhân chủ quan là chủ yếu do khả năng của chúng ta còn hạn chế. Trong công tác xây dựng pháp luật chúng ta nhìn chưa kể hết được vấn đề đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt chưa xử lý được vấn đề liên ngành, nội dung liên ngành. Ví dụ quan hệ giữa Luật Đầu tư công, rồi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường... Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung để xử lý các bất cập này.

Về nguyên nhân chủ quan, theo Bộ trưởng Long, nhiều vấn đề rất khó và có biến động mà phải cập nhật ngay lập tức. Ngay Covid-19 cũng phải cập nhật hay các  yêu cầu đặt ra trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải được cập nhật.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long
Ảnh: Quang Khánh

Về giải pháp, Bộ trưởng Long đề nghị 3 vấn đề: Một là, các chủ thể đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh và các băn bản thì cần cân nhắc thật kỹ; rà soát, đánh giá kỹ tác động và thực hiện nghiêm quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Hai là, khi soạn thảo các văn bản pháp luật thì phải đặt trong bối cảnh liên ngành, liên lĩnh vực và chỉ cần một vướng mắc trong 1 lĩnh vực khác thì ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác thành ra các nhóm luật sẽ không thực thi được. Ba là, tập trung nguồn lực vào yếu tố con người, đây vẫn là yếu tố cơ bản. Cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng pháp luật.

Bộ trưởng Long cũng thừa nhận đánh giá của ĐBQH Mong Văn Tình về tình trạng chậm ban hành văn bản là chính xác. Đây cũng là một tồn tại, hạn chế trong nhiều năm qua nhưng chưa khắc phục triệt để. Có thời điểm tốt, ví dụ từ năm 2017 Chính phủ không có văn bản nợ nào. Năm 2018 nợ 4; 2019 nợ 10;  2020 khi báo cáo Quốc hội thì nợ 20 nhưng vừa cập nhật trưa nay chỉ còn 11. “Tôi vẫn khẳng định lý do chủ quan là bản thân các bộ, ngành trong đó có cố gắng chưa kịp thời của Bộ Tư pháp, trong công tác tham mưu chung”, Bộ trưởng Long nói.

Bộ trưởng cũng nêu một số lý do khách quan như: thời gian vừa qua thì có luật giao ban hành rất nhiều văn bản quy định chi tiết. Chẳng hạn như Luật Thi hành án hình sự có tới 40 nội dung quy định chi tiết. Luật Đầu tư công là 30 nội dung và thời hạn có hiệu lực thì chỉ có 6 tháng sau khi ban hành. Cùng với đó có những vấn đề rất nhạy cảm, khó khăn.

Theo Bộ trưởng Long, trước hết vẫn phải là sự cố gắng của từng bộ, từng ngành; coi đây là trách nhiệm, nhiệm vụ trọng tâm và cũng là một tiêu chí để đánh giá cán bộ trong công tác thi đua và công tác bổ nhiệm. Đồng thời, khi làm luật, làm văn bản thì phải  song song với văn quy định chi tiết. Nếu chưa chín thì chưa trình, phải thực hiện nghiêm quy định của Luật ban hành quy phạm pháp luật mới khi trình dự thảo luật thì phải trình đề cương văn bản quy định chi tiết.

Quyết liệt làm sạch không gian mạng

Về chất vấn của ĐBQH Vũ Thị Thủy (Hải Dương), Bộ trưởng Bộ TT và TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, tin sai, tin giả đang là vấn nạn toàn cầu và tin giả ở Việt Nam chủ yếu xảy ra trên các nền tảng xuyên biên giới, chủ yếu trên mạng xã hội Facebook và  kênh Youtube. Việt Nam là nước có chủ quyền trên không gian mạng, do vậy các nền tảng nội dung xuyên biên giới buộc phải tuân thủ luật pháp Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ TT và TT Nguyễn Mạnh Hùng Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ TT và TT Nguyễn Mạnh Hùng
Ảnh: Quang Khánh

Thời gian qua, Bộ TT và TT xác định làm sạch không gian mạng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và làm rất quyết liệt. Về thể chế, đã ban hành Nghị định 75 về xử lý vi phạm hành chính trên mạng xã hội.

Về công cụ quản lý, Bộ đã xây dựng và nâng cấp Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia, có năng lực xử lý mỗi ngày là 300 triệu tin, có thể phân tích, đánh giá, phân loại và phát hiện sớm; cũng đã hình thành các đường dây nóng của Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử, các Sở Thông tin và Truyền thông để tiếp nhận phản ánh về các tin giả, tin xấu độc.

Về thực thi pháp luật, Bộ đã làm việc cứng rắn với các nền tảng xuyên biên giới, nhất là Facebook và Youtube. Tỷ lệ đáp ứng gỡ bỏ thông tin xấu độc của Facebook đã tăng từ 10% lên 95% và của Youtube tăng từ 50% lên 90%. Số lượng gỡ bỏ thông tin xấu độc của Facebook năm 2020 tăng 30 lần so với năm 2017. Số lượng video xấu độc được gỡ bỏ trên YouTube năm 2020 là tăng 8 lần so với năm 2017. Số trang giả mạo được gỡ bỏ cũng tăng 8 lần so với năm 2017.

Về xử lý vi phạm hành chính, từ đầu năm 2020 đến nay, Bộ TT và TT cùng các Sở TT và TT các tỉnh phối hợp với cơ quan chức năng địa phương đã xử lý hàng trăm trường hợp vi phạm về tin sai, tin giả; xử lý hàng ngàn đơn thư khiếu nại và phản ánh tố cáo về tin giả. Thời gian tới, đặc biệt là năm 2021, Bộ sẽ tập trung làm một số việc: Thứ nhất, tiếp tục sửa nghị định liên quan về mặt xã hội và tin giả. Thứ hai, ban hành bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng, cụ thể trong năm nay. Thứ ba, yêu cầu đích danh người sử dụng mạng xã hội. Bộ coi đây là giải pháp căn cơ để người sử dụng không còn nghĩ rằng: lên mạng xã hội vô danh và vì thế mà vô trách nhiệm. Thứ tư, tiếp tục phát triển các công cụ rà quét và quản lý không gian mạng bắt buộc phải bằng công nghệ. Thứ năm, nền tảng xuyên biên giới buộc phải tuân thủ luật pháp Việt Nam. Cùng với Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới đóng thuế và kiểm soát dòng tiền thanh toán. Hiện nay, 4 công ty lớn là GAFA, Amazone, Facebook và Apple phát sinh doanh thu tại Việt Nam hàng tỷ USD nhưng chưa đóng thuế. Thứ sáu, đề nghị Quốc hội thay đổi về xử phạt có tính răn đe. Hiện nay, chúng ta xử phạt chủ yếu là con số tuyệt đối mà chưa sử dụng mức phạt dựa trên doanh thu. Nếu chúng ta phạt 100 triệu đồng, khoảng 5.000 USD thì đối với cá nhân, doanh nghiệp nhỏ là lớn nhưng đối với doanh nghiệp hàng chục tỷ USD thì lại quá nhỏ. Các nước đã áp dụng mức phạt trên doanh thu với các công ty xuyên biên giới. Ví dụ, 4% doanh thu với Facebook thì mức phạt này là trên 1 tỷ USD.

“Tóm lại, bài học ở đây là quy trình, hành vi vi phạm pháp luật phải rõ ràng trong văn bản pháp luật; mức phạt phải có tính răn đe và phải có công cụ phát hiện tự động và quản lý bằng công nghệ; sau đó là thực thi nghiêm minh, dù là công ty nước ngoài hay trong nước”, Bộ trưởng Hùng nhấn mạnh. 

Không hạn chế quyền chống tiêu cực, tham nhũng của báo chí

Trả lời chất vấn của ĐBQH Phạm Thị Minh Hiền (Phú Yên), Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, cơ quan báo chí là cơ quan ngôn luận của cơ quan chủ quản, tức là các cơ quan, tổ chức nằm trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Mỗi một cơ quan, tổ chức đều có chức năng, nhiệm vụ riêng và các cơ quan báo chí phải bám theo các chức năng, nhiệm vụ này, hay còn gọi là tôn chỉ, mục đích để tuyên truyền và vì thế sẽ vẽ lên bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam.

ĐBQH Phạm Thị Minh Hiền (Phú Yên) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Phạm Thị Minh Hiền (Phú Yên)
Ảnh: Quang Khánh

Bộ trưởng cũng cho rằng, nếu không có sự phân vai mà lệch bên này hoặc lệch bên kia, nhiều chỗ này, ít chỗ kia thì rất nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội sẽ không được đề cập. Tập trung hoạt động theo tôn chỉ, mục đích của mình cũng giúp cho báo chí viết chuyên sâu. Đây là cái mà báo chí hiện nay đang còn yếu và đây là cách tiếp cận của Việt Nam đã được luật định.

Song cũng có ý kiến cho rằng, thực hiện tôn chỉ, mục đích sẽ hạn chế quyền của cơ quan báo chí, đặc biệt là trong việc chống tiêu cực, tham nhũng. Bộ trưởng Hùng khẳng định, điều này là không hạn chế quyền đó. “Khi cơ quan báo chí đi theo mảng chuyên ngành thuộc lĩnh vực của cơ quan chủ quản thì họ có toàn quyền đăng tải thông tin về các vụ việc tiêu cực, tham nhũng theo chuyên ngành của mình, thậm chí còn thuận lợi vì có thể viết rất sâu”, ông nói.

Thời gian vừa qua, có nhiều nhà báo, cơ quan báo chí đã đi tác nghiệp hoặc được giao đi tác nghiệp không đúng với tôn chỉ, mục đích, chuyên ngành của mình. Việc này gây khó khăn cho nhiều cơ quan, tổ chức và ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của cơ quan báo chí, nhà báo đang hoạt động đúng quy định của pháp luật. Bộ Thông tin và Truyền thông đã và sẽ nghiêm túc xử lý các cơ quan báo chí thực hiện không đúng tôn chỉ, mục đích.

Về việc “sáng đăng, trưa gặp và chiều gỡ” thì việc này đã xảy ra và đỉnh điểm là năm 2017. Mỗi tuần có đến hàng chục vụ bị phát hiện. Đây là hành vi sai trái. Từ năm 2018, Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông đã dùng công nghệ để phát triển công cụ phát hiện tự động các bài báo “sáng đăng, chiều gỡ”; thực hiện nhắc nhở các cơ quan báo chí và yêu cầu giải trình tại các cuộc giao ban báo chí hàng tuần; xử lý hành chính theo quy định về đạo đức nghề nghiệp của họ. Hiện nay, hiện tượng này đã giảm đáng kể. Mỗi tuần chỉ còn 1 - 2 vụ phải giải trình nhưng chủ yếu là do lỗi biên tập, sửa lại.

Sẽ giải quyết được sinh kế và đất sản xuất cho đồng bào DTTS

Trả lời chất vấn của ĐBQH Trần Thị Hoa Ry về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người tại Quyết định 2085, Quyết định 2086, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, đây là hai chương trình đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với đồng bào dân tộc thiểu số rất ít người. Tuy nhiên, 2 quyết định này ban hành vào năm 2016, tức là sau khi Quốc hội đã phê duyệt kế hoạch đầu tư công trung hạn nên không kịp đưa vào trong kế hoạch này. Đến năm 2019 Chính phủ mới báo cáo Quốc hội và đã đưa vào bố trí nguồn lực thực hiện chính sách của hai Quyết định này trong năm 2020. Do vậy nguồn vốn đã chậm hơn so với tất cả các chương trình khác.

ĐBQH Trần Thị Hoa Ry (Bạc Liêu) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Trần Thị Hoa Ry (Bạc Liêu)
Ảnh: Quang Khánh

Đặc điểm của hai chương trình này rất đặc thù: một là quy mô nhỏ, hai là nằm ở các vùng sâu, vùng xa và rất khó tiếp cận. Và cũng tiếp cận theo hai cách, phương thức công trình và phi công trình. Với công trình thì thực hiện theo Luật Đầu tư công, theo các thủ tục. Hiện nay Quyết định 2086 là đối với đồng bào dân tộc rất ít người, chủ yếu thực hiện theo công trình thì giải quyết rất tốt. Hiện nay đã trên 60%, riêng Quyết định 2085 là đối với đồng bào ít người thì thực hiện hỗn hợp cả công trình và phi công trình. Mà như vậy thì phải có hướng dẫn của Ủy ban Dân tộc; vừa rồi Ủy ban Dân tộc đã ra hướng và đang triển khai nên Quyết định này triển khai bị  chậm hơn so với Quyết định 2086.

Về giải pháp ngắn hạn, ông Dũng cho biết sẽ kiến nghị với Chính phủ cho phép kéo dài chương trình đến hết năm 2021; còn về lâu dài thì đã thống nhất giữa Hội đồng Dân tộc và Chính phủ là sẽ gộp chung hai Quyết định này vào chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ đồng bào dân tộc ở miền núi trong giai đoạn tới. Như vậy sẽ giải quyết được vấn đề sinh kế và đất sản xuất.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng Ảnh: Quang Khánh
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng
Ảnh: Quang Khánh

Trả lời chất vấn về hiệu quả đầu tư Icor, ông Dũng nêu rõ, đây là chỉ tiêu kinh tế hỗn hợp phản ánh chúng ta cần bao nhiêu vốn đầu tư để tạo ra được một đồng tăng trưởng GDP. Giai đoạn 2011 – 2015, ICOR của chúng ta là 6,3; 2016 - 2019 là 6,1, tức là đã giảm đi rất tốt. Tuy nhiên, năm 2020 thì tăng lên do tình hình ảnh hưởng của Covid - 19 và bão lũ  nên GDP năm nay giảm xuống.

Ông Dũng cũng cho biết, cần có thời gian dài thì mới đánh giá được hiệu quả của các công trình đầu tư, có độ trễ. ICOR hàng năm chỉ làm để tham khảo trong điều hành thôi, còn phải sau 5 năm mới đánh giá toàn diện được hiệu quả của việc đầu tư đó. 

Thi hành án hành chính thấp – giải pháp căn cơ là phải sửa luật

Trả lời chất vấn của ĐBQH Trần Thị Dung và ĐBQH Nguyễn Văn Hiển (Lâm Đồng), Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình nêu rõ, thi hành án không phải trách nhiệm của Tòa án. Thi hành án hình sự thuộc trách nhiệm Bộ Công an. Thi hành án dân sự thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Thi hành án hành chính thuộc trách nhiệm của các bên, ví dụ UBND thay  đổi quyết định của mình thì UBND phải ra quyết định thay đổi. “Vì không có cơ quan thứ 3  trung gian nên tính cưỡng chế không có, việc này tùy nghi. Vì vậy dẫn đến việc tỷ lệ thi hành án hành chính thấp. Nếu đúng như vậy, Quốc hội cần tiến hành tổng kết và giải pháp căn cơ khắc phục tình trạng này là thay đổi quy định này, không phải bản án được quyết định xong là giao các bên tự thi hành. Trách nhiệm của Tòa án, 100% bản án hành chính được Tòa án ra quyết định thi hành đúng thời hạn, đúng quy định”, ông Bình nói.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình Ảnh: Quang Khánh
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình
Ảnh: Quang Khánh

Về vấn đề luật sư, ông Bình khẳng định, tranh tụng được xem là giải pháp đột phá của quá trình cải cách tư pháp. Trong quá trình này, Tòa án không phải chủ thể tranh tụng. Với vụ án hình sự, thì bên gỡ tội và buộc tội, tức là luật sư và đại diện viện kiểm sát là hai chủ thể tham gia tranh tụng. Với vụ án dân sự, bên nguyên và bên bị tự thực hiện tranh tụng. Tòa án có vai trò tạo môi trường thuận lợi cho tranh luận. Tòa án quan niệm sự tham gia của luật sư đúng đắn, đúng pháp luật và sự biện luận này là con đường đi đến công lý. Vì vậy, Tòa án tạo điều kiện tối đa cho luật sư trong quá trình tranh tụng. “Chúng tôi đã chỉ đạo toàn hệ thống không hạn chế thời gian tranh tụng nếu như luật sư còn tiếp tục nêu.  Mọi vấn đề nêu lên trong tranh tụng đều phải được giải quyết trong phiên tòa, được ghi trong biên bản. Hội đồng xét xử chỉ được tuyên án trên cơ sở kiểm tra chứng cứ công khai trên tóa và qua quá trình tranh tụng. Trên thực tế, nhiều vụ án gần đây làm được việc này, nhất là vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng”, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho biết.

Công an cơ sở tiêu cực là hết sức cá biệt

Về tiêu cực của một số công an cơ sở, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, nếu có thì chỉ là trường hợp hết sức cá biệt. Hiện nay, Bộ Công an đã triển khai một lượng lớn công an xuống cơ sở, từ cấp phường, thị trấn và cấp xã thì được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Quan điểm của Bộ Công an là kiên quyết trong xử lý các sai phạm, tiêu cực và đã thực hiện nhiều biện pháp để phòng ngừa, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm, tiêu cực của cán bộ, chiến sĩ, không bao che bất kể trường hợp nào.

Cũng theo ông Tô Lâm, một số biện pháp cụ thể để chống nhũng nhiễu, tiêu cực trong lực lượng Công an cũng như công an các cấp cơ sở là: tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn lực lượng Công an nhân dân với quan điểm danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất như phát biểu của Tổng bí thư, Chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần làm việc với Đảng ủy Công an Trung ương. Gắn trách nhiệm thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm quản lý cán bộ theo từng đơn vị được phân công phụ trách, nếu cán bộ có vi phạm thì xử lý trách nhiệm người đứng đầu đơn vị đó. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật Đảng trong công an nhân dân, kiên quyết xử lý các vi phạm không bao che, né tránh, đồng thời công khai, minh bạch kết quả xử lý. “Nhân đây, tôi đề nghị đại biểu Lưu Bình Nhưỡng cũng như các đại biểu Quốc hội khác và cử tri, nhân dân nếu phát hiện ra những trường hợp mà công an có những cái tiêu cực như vi phạm thì cũng có trao đổi với chúng tôi ở mọi cấp. Chúng tôi sẵn sàng tiếp nhận những thông tin đó để xác minh, đánh giá và xử lý kịp thời, có thông báo rộng rãi”, Bộ trưởng Bộ Công an nhấn mạnh.

ĐBQH Bùi Quốc Phòng (Thái Bình) Ảnh: Quang Khánh
ĐBQH Bùi Quốc Phòng (Thái Bình)
Ảnh: Quang Khánh

Trả lời chất vấn của ĐBQH Bùi Quốc Phòng (Thái Bình) xung quanh vấn đề tội phạm xã hội, phòng, chống tội phạm, việc xâm hại phụ nữ, trẻ em, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, tình hình tội phạm do nguyên nhân xã hội xảy ra rất đáng quan ngại. Gần đây, những tội phạm giết người do nguyên nhân xã hội có chiều hướng gia tăng. Năm 2020 đã xảy ra 1.113 vụ, tăng 7 % so với cùng kỳ năm 2019, trong đó có 212 vụ là người thân trong gia đình giết hại lẫn nhau. Điều này thể hiện những vấn đề rất đáng lo ngại vì xuống cấp của đạo đức xã hội.

Để giải quyết tận gốc loại tội phạm này, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành luật pháp để xây dựng một môi trường xã hội lành mạnh, khắc phục sự xuống cấp về đạo đức xã hội, đạo đức con người. Trong quá trình phát triển, không chỉ quan tâm đến kinh tế mà phải coi trọng đầy đủ hơn những vấn đề xã hội.

Trước mắt, để hạn chế loại tội phạm này, Bộ Công an đề nghị các cấp, các ngành cùng với lực lượng công an tăng cường nắm tình hình, phối hợp giải quyết, hòa giải mâu thuẫn trong nhân dân ngay từ khi mới phát sinh; quản lý, giáo dục, cảm hóa các loại đối tượng, không để nảy sinh tội phạm. Riêng lực lượng công an sẽ tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng cơ sở, nhất là hoạt động của công an cấp xã, phường để góp phần giải quyết các mâu thuẫn phát sinh ngay từ cơ sở để ngăn ngừa các điều kiện nảy sinh các tội phạm, đặc biệt những tội phạm do mâu thuẫn trong gia đình. Quản lý tốt các đối tượng dễ manh động xảy ra những loại tội phạm kiểu dạng như thế này như đối tượng ngáo đá, tâm thần... 

Cơ quan điều tra luôn tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng

Mở đầu phiên chất vấn và trả lời chất vấn chiều nay, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã trả lời chất vấn của ĐBQH Trần Thị Dung (Điện Biên) về việc nợ quyết định ban hành danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; chất vấn của ĐBQH Lưu Bình Nhưỡng (Bến Tre) về việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong quá trình tố tụng và tình trạng công an cơ sở đi thu tiền của bà con buôn bán, nhất là trong các dịp lễ, tết; chất vấn của ĐBQH Bùi Quốc Phòng về giải pháp khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật do nguyên nhân xã hội, văn hóa, đạo đức xuống cấp...

Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm
Ảnh: Quang Khánh

Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, ngay sau khi Quốc hội thông qua Luật An ninh mạng, Bộ Công an đã tích cực xây dựng các văn bản có liên quan để triển khai thực hiện. Đến nay, đã cơ bản ban hành các nghị định, các quy định theo yêu cầu của Luật An ninh mạng. Cụ thể, Bộ đang tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định số 04 ngày 27.12.2019 quy định về trình tự, thủ tục áp dụng một số biện pháp bảo đảm an ninh mật thì hiện nay luật và nghị định này đã, đang đi vào cuộc sống.

Về danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, Bộ Công an đã dự thảo xong và cũng đã báo cáo Thủ tướng. Hiện nay còn 1 nghị định quy định chi tiết về một số điều của Luật An ninh mạng đã dự thảo xong và đã báo cáo với Thủ tướng nhưng chưa ban hành là do một số các yêu cầu về đối ngoại, đặc biệt là sự cân đối, xem xét phù hợp với một số quy định quốc tế, trong đó phù hợp với luật pháp Việt Nam. Chưa ký ban hành nghị định này thì chưa có căn cứ để để thực hiện, để ban hành danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Về chủ trương chung cũng như trên thực tế, Bộ trưởng Tô Lâm khẳng định, các cơ quan điều tra luôn tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra theo đúng quy định của pháp luật. Bộ Công an cũng đã ban hành Thông tư số 46 quy định trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã người bị tạm giữ, bị can và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Trong đó, đã quy định rất cụ thể các biện pháp để thực hiện các quyền nêu trên và tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào thực hiện. Cụ thể trong năm 2020 thì cơ quan điều tra các cấp 3.765 giấy chứng nhận bào chữa theo yêu cầu của bị can, tăng so với trước là 2,42 % và 7.156 giấy chứng nhận bào chữa cấp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cũng tăng 17,08 %. 

Ảnh: Quang Khánh

Ảnh: Quang Khánh

PV