Bài 2: Đứng vững dưới đạn bom
Thế giới từng quan niệm: “Chiến tranh là sự diệt vong của văn hóa, giáo dục. Lửa chiến tranh bốc lên ở đâu là đốt sạch mọi thành quả văn hóa giáo dục ở đấy”. Tuy nhiên, tại Việt Nam, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, đất nước bị chia cắt, ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hệ thống giáo dục vẫn tiếp tục được mở rộng, mỗi ngày hàng triệu thầy cô, học sinh, sinh viên khắc phục muôn vàn khó khăn đến trường.
“Khó khăn đến đâu chúng tôi vẫn được học”
“Thế hệ tôi lớn lên sau Cách mạng tháng Tám và được học tập dưới mái trường phổ thông từ sau ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập. Có biết bao kỷ niệm trong suốt thời kháng chiến chống Pháp, rồi chống Mỹ” - GS.TS.NGND Nguyễn Lân Dũng nhớ lại.
“Những năm 1947 - 1951 tại Việt Bắc tôi phải thay đổi nhiều trường vì phụ thuộc vào sự di chuyển của cơ quan bố tôi (Ty Giáo dục Liên khu X và Ty Giáo dục Liên khu Việt Bắc). Có lúc học ban ngày, có lúc học buổi tối. Hầu hết là đi bộ, hầu như chưa bạn nào có xe đạp. Có thời gian cả nhà ăn sắn lưu niên nạo ra rồi luộc lên và chấm muối ớt. Có thời gian cả trường đội mũ rơm. Có lần bị máy bay ném bom ngay gần hầm trú ẩn. Vậy mà vẫn chăm chỉ học tập”.

Ảnh: Mầu Hoàng Thiết
Ông Dũng vào học Trường Sư phạm sơ cấp Trung ương ở Thái Nguyên khi mới 13 tuổi, và đến nay vẫn ấn tượng về những buổi học tối, ai cũng mang theo các loại đèn tự chế bằng hộp thuốc đánh răng Gibb đã dùng hết, cho bông vào và thấm dầu sở, lấy ruột cây guột làm bấc.
“Ngay sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, tôi vào đại học. Khi đó hai trường Đại học Sư phạm (Khoa học và Văn khoa) đều ở trong các nhà 4 tầng của khu Bách khoa bây giờ. Sáng ăn củ sắn, củ khoai rồi cuốc bộ lên tận 19 Lê Thánh Tông. Buổi trưa ăn tập thể mà thức ăn hầu như toàn bí ngô! Vậy nhưng học rất vui và rất tốt… Dù khó khăn đến đâu chúng tôi vẫn được học và được dạy trong sự cố gắng của cả nước. Tôi tốt nghiệp đại học khi mới 18 tuổi” - GS.TS.NGND Nguyễn Lân Dũng kể, và khẳng định: “Nền giáo dục của chúng ta vẫn đứng vững trong suốt những năm kháng chiến rất khó khăn nhưng đầy lạc quan và tin tưởng”.
Nền giáo dục căn bản và hệ thống
Ngay cả khi đất nước đang oằn mình hứng chịu đạn bom, nhưng trước nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm quyền học tập ngày càng cao của nhân dân, hệ thống giáo dục vẫn ngày càng được hoàn thiện. Điều 33, Hiến pháp 1959 ghi rõ: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường học và cơ quan văn hóa, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó”.
Tháng 10.1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định phê chuẩn việc thành lập Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, tách khỏi Bộ Giáo dục. Sau đó, hàng loạt trường trung học chuyên nghiệp mới được mở ra ở cả trung ương và địa phương. Mạng lưới các trường đại học và quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng…
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc: “Nền giáo dục trong kháng chiến mặc dù rất khó khăn nhưng hết sức căn bản và mang tính hệ thống. Chính vì thế, khi chúng ta hoàn thành cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc giải phóng, nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành hiện thực, sau này tiếp tục được mở ra ở vùng giải phóng tại miền Nam năm 1960”.
“Trong bối cảnh chiến tranh, phần lớn dân cư phải đi sơ tán, chúng ta vẫn duy trì giáo dục vùng nông thôn, giáo dục phổ thông, kể cả các trường trình độ cao, không bị đứt đoạn. Nhờ thế, ta có nguồn nhân lực, không chỉ là lực lượng vũ trang mà có cả lực lượng chuyên môn. Đây cũng là thời kỳ được nhiều nước Xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện đào tạo nhân lực. Vì thế khi thống nhất, đất nước đã có nguồn nhân lực khá đầy đủ để có thể tiếp nhận những không gian mới, bên cạnh chính sách khai thác nguồn nhân lực tại chỗ”, nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết thêm.

Toàn dân biết chữ để đi bầu cử Quốc hội thống nhất
“Năm 1976, tôi được bầu vào Quốc hội và được cử làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhiệm vụ trước tiên của chúng tôi là vừa phải thống nhất quản lý ngành, vừa phải đẩy mạnh phát triển giáo dục các tỉnh phía Nam, đặc biệt chú ý các vùng sâu, vùng xa, nơi có thể coi là vùng “trắng” về giáo dục” - bà Nguyễn Thị Bình - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1976 - 1987), nguyên Phó Chủ tịch Nước (1992 - 2002), viết trong hồi ký.
Bà Nguyễn Thị Bình nhớ lại cuộc vận động lớn để đưa giáo viên miền Bắc vào chi viện cho các tỉnh phía Nam. Có thể ví như một cuộc hành quân năm xưa. Trong những năm 1977 - 1978, hàng nghìn giáo viên các tỉnh miền Bắc, theo lời kêu gọi của Bộ Giáo dục, đã xung phong đi phục vụ sự nghiệp giáo dục ở các tỉnh phía Nam. Nghệ Tĩnh là tỉnh có số giáo viên vào đông nhất…
“Không chỉ giáo viên, mà cán bộ quản lý cũng được điều về Nam. Sau 2 năm, chúng tôi đã hình thành xong bộ máy quản lý trong cả nước. Khoảng 5 năm sau thì ngành giáo dục đã có mạng lưới trường phổ thông ở hầu khắp các tỉnh, huyện, xã của miền Nam. Một nhiệm vụ cấp bách khác là phải mau chóng “xóa mù chữ” cho nhân dân lao động và bổ túc văn hóa cho cán bộ và thanh niên” - bà Bình cho biết.

Ảnh tư liệu: TTXVN
Khi ấy, các tỉnh đều biết kết hợp chặt chẽ công tác xóa mù chữ với các cuộc vận động lớn của Đảng. Khẩu hiệu “Toàn dân biết chữ để đi bầu cử Quốc hội thống nhất” đưa ra kịp thời. Nhiều địa phương hạ quyết tâm xóa những bàn viết hộ trong ngày bầu cử. Nhiều lớp xóa mù chữ tập đọc, tập viết các tiểu sử ứng cử viên Quốc hội. Sau ngày tuyển cử, chiến dịch hè diệt dốt năm 1976 đã được phát động. Hàng vạn giáo viên phổ thông cùng với hàng chục vạn học sinh đã về các thôn, xóm xóa mù chữ. Hơn 20 vạn người đã được xóa mù chữ trong dịp này…
Theo bà Nguyễn Thị Bình: “Với sự nỗ lực của toàn ngành, nhất là sự chỉ đạo của Đảng, chính quyền và sự tham gia của nhân dân, chiến dịch Ánh sáng văn hóa ở toàn miền Nam đến ngày 28.2.1978 đã hoàn thành về cơ bản, đạt 94,15% số người trong diện phải thanh toán mù chữ. Công tác bổ túc văn hóa cho cán bộ cũng được tiến hành đồng thời”…
“Điều thu hoạch lớn nhất của tôi qua giai đoạn này là hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa vô cùng quan trọng của giáo dục đối với đất nước và đối với cuộc đời của từng con người. Quyền bình đẳng quan trọng đối với mỗi người dân trước hết phải là quyền được học hành, để mỗi người đều có cơ hội phát triển, xây dựng tương lai của mình. Cũng từ đó tôi càng hiểu ý nghĩa sâu xa của điều có thể gọi là một chủ thuyết của cụ Phan Châu Trinh: 'Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh'. Chủ thuyết đó ngày nay còn nguyên giá trị, nếu không nói là càng sáng rõ và cấp thiết hơn".
Nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình