Nét độc đáo, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam
Sau khi “lá chắn thép” Xuân Lộc thất thủ, chính quyền Sài Gòn lâm vào tình thế khủng hoảng nghiêm trọng. Ngày 21.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức tổng thống, giao quyền hành cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Vừa mới nhậm chức, Trần Văn Hương được Mỹ ủng hộ, đã ra nhật lệnh “Chống cộng đến giọt máu cuối cùng", yêu cầu bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn lập tức chấn chỉnh, khôi phục lực lượng, điều chỉnh thế bố trí nhằm giữ phần đất đai còn lại ở miền Nam, trước hết là bảo vệ “thủ phủ” Sài Gòn để chờ mong một giải pháp chính trị thông qua đàm phán, thương lượng.
Lúc này, lực lượng địch phòng thủ Sài Gòn lên đến 245.000 tên, có hơn 400 khẩu pháo, 600 xe tăng, 800 máy bay cùng nhiều loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại khác. Chúng bố trí phòng thủ thành 3 tuyến:
Tuyến vòng ngoài, có các sư đoàn chủ lực mạnh muốn ngăn chặn quân ta từ xa 30 - 50km, đề phòng khi bị tiến công, chúng sẽ từng bước lùi dần và co cụm về Sài Gòn “tử thủ”.
Tuyến vành đai, cách trung tâm 14 - 20km do các liên đoàn biệt động cùng lực lượng bảo an, quân địa phương chốt giữ nhằm bảo vệ các mục tiêu trọng yếu.
Khu nội thành, địch tổ chức phòng thủ thành 5 liên khu do toàn bộ lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự phụ trách.
Về phía ta, đến những ngày cuối tháng 4.1975, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng: chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Về mặt lực lượng, quân ta vẫn chiếm ưu thế áp đảo, bao gồm 4 quân đoàn (1, 2, 3, 4) và Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) cùng khối lượng vật chất bảo đảm đến mức tối đa. Về thế trận, ta hình thành thế bao vây Sài Gòn từ 5 hướng (bắc, tây bắc, đông, đông nam, tây nam). Lực lượng lãnh đạo của Đảng và chính quyền cách mạng đã di chuyển xâm nhập vào ven đô, trong đó có một số mũi đã vào sâu nội thành chuẩn bị phát động quần chúng nổi dậy phối hợp với đòn tiến công quân sự. Đây là thế trận chiến dịch tiến công chiến lược tổng hợp mạnh chưa từng thấy trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam.
Bộ Chính trị đã đề ra phương châm, tư tưởng chỉ đạo “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” và đặt ra yêu cầu: lựa chọn cách đánh phù hợp để vừa bảo đảm phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả lực lượng, giành thắng lợi nhanh nhất, vừa giảm thiểu được sự tàn phá của chiến tranh. Ngày 22.4.1975, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã điện đến Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, nêu rõ: Thời cơ quân sự và chính trị để mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn đã chín muồi. Ta cần tranh thủ từng ngày, kịp thời phát động tiến công địch trên các hướng, không để chậm. Nếu để chậm thì không có lợi cả về chính trị và quân sự. Kịp thời hành động lúc này là bảo đảm chắc chắn nhất để giành thắng lợi hoàn toàn.
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngay trong ngày 22.4.1975, Bộ chỉ huy chiến dịch duyệt lại lần cuối cùng kế hoạch tác chiến. Trong thời điểm bước ngoặt này, trên cơ sở trí tuệ tập thể, với lối tư duy quân sự sắc sảo, vận dụng linh hoạt, sáng tạo về nghệ thuật quân sự, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã hạ quyết tâm chính xác ở hai yếu tố cơ bản: lựa chọn mục tiêu chủ yếu và cách đánh.
Sau một thời gian nghiên cứu, Bộ Tư lệnh chiến dịch đi đến quyết định:
Về mục tiêu chủ yếu: xác định 5 mục tiêu quan trọng nhất cần đánh chiếm bằng được: Bộ Tổng tham mưu, Dinh Độc lập, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất. Đây được ví như những cái “huyệt” trong cơ thể đang suy nhược của chế độ Sài Gòn. Hạ được 5 mục tiêu này thì toàn bộ chế độ ngụy rung chuyển và sụp đổ, lực lượng địch buộc phải đầu hàng. Điều này đã làm cho cả Mỹ - chính quyền Sài Gòn hết sức bất ngờ, bởi trong điều kiện quân địch còn mấy trăm nghìn tên, bố trí phòng thủ dày đặc vòng trong, vòng ngoài, mà phía Quân giải phóng chỉ lựa chọn 5 mục tiêu lớn nhất, quyết đánh chiếm bằng được trong thời gian ngắn nhất. Quyết định táo bạo này rõ ràng đã vượt qua ngoài sự tính toán, kế hoạch phòng thủ của địch.
Về cách đánh: Sử dụng một bộ phận lực lượng thích hợp trên từng hướng bao vây, tiêu diệt, làm tan rã tại chỗ các sư đoàn chủ lực của địch ở “vòng ngoài”; đồng thời dùng đại bộ phận lực lượng nhanh chóng cơ động đánh chiếm các địa bàn then chốt ven đô, đập tan lực lượng địch tại “khu vành đai”, mở đường cho các mũi đột kích mạnh “thọc sâu” đánh thẳng vào 5 mục tiêu chủ yếu đã được lựa chọn trong nội thành. Với cách đánh như vậy, ta vừa bảo đảm được tốc độ, thời gian tiến công; đồng thời buộc địch phải chống đỡ toàn diện mà không có lực lượng hỗ trợ ứng cứu, không thể co cụm về Sài Gòn “tử thủ”.
Vào hồi 17 giờ ngày 26.4.1975, chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức bắt đầu. Sau 5 ngày tiến công liên tục mãnh liệt và toàn diện, đến trưa ngày 30.4.1975, Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ nội các chính quyền trung ương địch, buộc tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cách mạng đã giữ được thành phố Sài Gòn hầu như nguyên vẹn. Đó là một thành công to lớn mà cả thế giới thấy kinh ngạc.
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là minh chứng tiêu biểu, khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Bộ Chính trị, đồng thời cũng cho thấy tài năng quân sự kiệt xuất của bộ thống soái Việt Nam, chính thức đưa nghệ thuật quân sự dân tộc phát triển lên tầm cao mới, mang tính khoa học và tư tưởng nhân văn sâu sắc. Những bài học kinh nghiệm về nghệ thuật quân sự rút ra từ chiến dịch lịch sử này tiếp tục được Đảng và quân đội ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong chặng đường cách mạng tiếp theo.