Đầu tư để bứt phá

Hương Sen 24/04/2020 08:48

Khi bàn về thực trạng và giải pháp cho mỹ thuật ứng dụng Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam, cố họa sĩ Trần Khánh Chương từng chia sẻ: “Một bức tranh thường có giá trị cao, tác giả được ghi danh, trong khi một sản phẩm sáng tạo mỹ thuật ứng dụng có thù lao thấp, không mấy ai quan tâm đến tên tác giả. Nếu cứ giữ quan điểm như vậy thì tác phẩm mỹ thuật ứng dụng không được dồn nhiều hàm lượng nghệ thuật và ngành này cũng khó bứt phá để trở nên chuyên nghiệp”.

Tác động của cơ chế thị trường

Mỹ thuật ứng dụng là lĩnh vực hoạt động cần có sự liên kết, phối hợp giữa người thiết kế và đơn vị sản xuất, giữa vùng nguyên liệu và nhà sản xuất, giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa thị trường trong nước và quốc tế. Như vậy, vai trò của khâu thiết kế đối với các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng vô cùng quan trọng. Trưởng khoa Mỹ thuật Công nghiệp, Trường Đại học Văn Lang, họa sĩ Phan Quân Dũng phân tích: “Mối quan hệ giữa người thiết kế và doanh nghiệp là không thể tách rời, nhưng chúng ta đang chứng kiến sự chồng lấn, tách rời, co cụm trong mối quan hệ này. Thực tế, doanh thu là yếu tố sống còn với các doanh nghiệp nên họ không thể chờ hàng tháng để một nhà thiết kế tự đi thực tế và sáng tạo tác phẩm”.

Họa sĩ Phan Quân Dũng nhìn nhận, lâu nay các nhà thiết kế mỹ thuật ứng dụng ở Việt Nam vẫn đang sáng tạo theo “vốn tự có”. Nếu ở nước ngoài, các nhà thiết kế có kho tư liệu để có thể tham khảo nhưng ở Việt Nam hầu như họ phải “tự thân vận động”. Từ đó, dẫn đến việc khi doanh nghiệp đặt hàng thiết kế sản phẩm, nhà thiết kế chỉ có 1 - 2 ngày để hoàn thiện, không đủ thời gian đi thực tế tìm hiểu kỹ để đưa vào sản phẩm. Trong khi đó, tiêu chí của doanh nghiệp thì đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Nhà thiết kế làm thuê theo kiểu chỗ nào có tiền là làm, bất chấp quy định, đạo đức của người làm nghề, nên dễ dàng cóp nhặt mỗi nơi một chút, tác phẩm vì thế không mang nhiều hàm lượng nghệ thuật. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn “khuyến khích” các nhà thiết kế bằng cách cho đi hội chợ, triển lãm để sao chép các sản phẩm mẫu, rồi “luyến láy” thành mẫu mã mới cho sản phẩm của đơn vị, bán ra thị trường. Cách làm này tiềm ẩn nhiều rủi ro, chưa nói đến phát triển bền vững.

Đồng quan điểm, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Mỹ thuật Công nghiệp Ngô Anh Cơ cho biết: Lâu nay sinh viên của trường sau khi tốt nghiệp khá “đắt hàng”, thậm chí nhiều người đang trong quá trình học tập đã có doanh nghiệp đến tìm. Tuy nhiên, sự quan tâm ấy của phần lớn doanh nghiệp vẫn chỉ dừng ở giải pháp tình thế, “lấy ngắn, nuôi dài”, mà thiếu đầu tư dài hạn.

Nghệ nhân làng nghề có nhiều sản phẩm sáng tạo Ảnh: TTXVN
Nghệ nhân làng nghề có nhiều sản phẩm sáng tạo  
Ảnh: TTXVN

Bảo đảm đầu ra bền vững

Bên cạnh những vấn đề xung quanh khâu thiết kế, nhiều người nhìn nhận để mỹ thuật ứng dụng trở nên chuyên nghiệp hơn, sản phẩm phải được đưa vào đời sống. Họa sĩ Lê Ngọc Hân, nguyên giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp cho rằng, xét về khái niệm, thuật ngữ ứng dụng để chỉ những sản phẩm làm ra có thể ứng dụng trong cuộc sống. “Tưởng chừng, đây là khái niệm rộng nhưng thực chất lại đang bị bó hẹp và chúng ta tự phong thuật ngữ ứng dụng mang tính đẳng cấp. Tôi đến các làng nghề ở ngoại thành Hà Nội, chứng kiến những nghệ nhân sản xuất mây tre đan, những sản phẩm vô cùng tỉ mỉ, thể hiện trí tuệ và công sức của họ, nhưng không hiểu sao chúng ta lại đang mặc cảm về tên gọi này”, họa sĩ Lê Ngọc Hân nói.

Thực tiễn cho thấy từ nhiều năm qua mỹ thuật ứng dụng đang đóng vai trò quan trọng, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước. Bao gồm nhiều chuyên ngành, từ thiết kế đồ họa, thiết kế mỹ thuật đa phương tiện, thiết kế trang trí nội thất, thiết kế sản phẩm, thiết kế đồ chơi, thiết kế thời trang và phụ kiện... mỹ thuật ứng dụng đã thâm nhập vào tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo đánh giá, ngành nghề này ở Việt Nam đang thừa nguồn nhân lực nhưng lại thiếu thợ lành nghề, cũng như môi trường để kích cầu phát triển. Nguyên nhân chính là ngay ở mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm mỹ thuật ứng dụng đang thiếu sự kết nối, hỗ trợ cần thiết.

Trước thực trạng ngành mỹ thuật ứng dụng ở nước ta chưa được coi trọng đúng mức, họa sĩ Vi Kiến Thành, nguyên Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm, chia sẻ, các quốc gia phát triển coi mỹ thuật ứng dụng là ngành kinh tế tri thức và chú trọng đầu tư. Tại các trường chuyên nghiệp, trong 10 chỉ tiêu đào tạo thì 8 chỉ tiêu là mỹ thuật ứng dụng và 2 chỉ tiêu là nghệ thuật tạo hình. Còn ở Việt Nam, họa sĩ thường được chú ý nhiều hơn nhà thiết kế mỹ thuật. Nhiều nghệ sĩ tạo hình tham gia hoạt động mỹ thuật ứng dụng để nuôi nghề chính là hội họa, nên ít đầu tư cho sản phẩm mỹ thuật ứng dụng.

Hiện cả nước có hơn 80 cơ sở có đào tạo các ngành mỹ thuật. Mỗi năm có khoảng 9.000 sinh viên ra trường, trong đó, phần lớn thuộc lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng. Đây là nguồn nhân lực sáng tạo dồi dào nhưng chưa được thúc đẩy và tận dụng. Để khắc phục tình trạng này, theo cố họa sĩ Trần Khánh Chương, cần có tiếng nói chung, có sự đồng hành giữa nhà quản lý, nhà làm chính sách, nhà sản xuất và họa sĩ, nhà thiết kế. Đứng ở góc độ đào tạo, cần bảo đảm đầu ra bền vững cho sản phẩm cũng như ý thức về vai trò của mỹ thuật ứng dụng trong các doanh nghiệp. Công việc này có thể học tập từ phương pháp đào tạo tại các nước tiên tiến: Trước khi làm bài tốt nghiệp, sinh viên phải đi liên hệ ở các cơ sở sản xuất để tìm sự hỗ trợ cũng như bảo đảm đầu ra cho thiết kế của mình. Bên cạnh đó, cơ sở sản xuất nhận bảo trợ sinh viên sẽ được miễn giảm thuế kinh doanh ở mức độ nào đó. Như vậy, cả ba bên (nhà trường, doanh nghiệp và sinh viên) đều có lợi.

Hương Sen