Bài 1: Nhà trí thức yêu nước chân chính, uyên bác
Cụ Nguyễn Văn Tố (bút hiệu là Ứng Hòe) sinh ra trong một gia đình nhà nho, thuộc làng Đông Thành, nay là phố Bát Sứ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Thân phụ là cụ Nguyễn Văn Thịnh, một nhà nho yêu nước, thân mẫu là cụ Lê Thị Kim, quê gốc ở Hà Đông. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Văn Tố đã thể hiện tư chất thông minh và học giỏi. Năm mới lên 4 - 5 tuổi, tự học chữ nho tại nhà, Nguyễn Văn Tố đã đạt ở trình độ Tam tự kinh - bậc khởi đầu của Nho học, sau đó, lần lượt đạt qua các bậc “Nhất trường”, “Nhị trường”, và “Tam trường”.
![]() |
Tấm gương điển hình về tự học, tự nghiên cứu khoa học
LTS: Cụ Nguyễn Văn Tố đã đi vào lịch sử dân tộc với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp khoa học, nhất là khoa học xã hội và nhân văn; chống nạn thất học, nâng cao dân trí. Trên cương vị công tác nào, cụ cũng mang hết tài năng, tâm huyết, kinh nghiệm để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến kiến quốc. Đặc biệt, trên cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuy thời gian chỉ hơn 8 tháng, cụ Nguyễn Văn Tố đã góp phần vào việc củng cố chính quyền cách mạng, hoàn thiện đường lối đối nội, đối ngoại, đưa đất nước ra khỏi cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Cụ là Bộ trưởng liệt sỹ duy nhất của Chính phủ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Nhân kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của cụ Nguyễn Văn Tố, Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài nhằm ôn lại cuộc đời, sự nghiệp và tôn vinh những cống hiến to lớn của cụ đối với cách mạng Việt Nam, đối với Quốc hội. |
Những năm cụ Nguyễn Văn Tố được sinh ra và lớn lên, đất nước đã trải qua nhiều biến động lịch sử to lớn. Sau khi triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Patenotre (1884), nhiều phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp nối tiếp nhau đã nổ ra trên khắp cả nước. Tuy nhiên, từ phong trào Cần Vương (1885 đến những năm cuối thế kỷ XIX); phong trào Duy Tân (1906 -1908) do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo; cho đến vụ “Hà Thành đầu độc” (1908) do nhóm nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám ở Hà Nội tổ chức1 đều lần lượt bị thất bại.
Sự thất bại của những phong trào đấu tranh đó đã tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm, ý chí của Nguyễn Văn Tố, góp phần hình thành nhân cách Nguyễn Văn Tố - một nhà yêu nước chân chính và nhiệt huyết, một nhà khoa học tài năng, một nhân sĩ cách mạng kiên cường, bất khuất. Cả cuộc đời cụ Nguyễn Văn Tố là tấm gương điển hình về tự học, tự nghiên cứu khoa học và phấn đấu không ngừng. Với phương châm “cách vật trí tri”, Nguyễn Văn Tố đã vào học Trường Thông ngôn của Pháp mở tại Hà Nội. Mới 17 tuổi (1906), Nguyễn Văn Tố đã được vào làm việc ở Học viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) của Pháp đặt tại Hà Nội. Đây là môi trường tốt nhất để Nguyễn Văn Tố đạt được mục đích của mình. Từ một phán sự tạm tuyển, Nguyễn Văn Tố đã trở thành “Chủ sự” (dưới quyền Giám đốc) của EFEO cho đến tận ngày Cách mạng tháng Tám thành công (1945).
Nguyễn Văn Tố có vốn kiến thức phong phú về Hán Nôm, về lịch sử, văn hóa Việt Nam và phương Đông. Ở cụ có sự kết hợp giữa hai nền văn hóa Việt Nam và Pháp, kết hợp hai nền văn minh phương Đông và phương Tây trên nền tảng bền vững của truyền thống văn hóa dân tộc, cốt cách tâm hồn Việt Nam, và biểu hiện sâu sắc nhất là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
Cụ Nguyễn Văn Tố để lại nhiều công trình nghiên cứu liên ngành và chuyên sâu, bao quát nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, như sử học, văn học, văn bản học, khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc học, tôn giáo học, văn hóa học, văn hóa dân gian, kiến trúc nổi bật. Các tác phẩm “Sự tích Ôn Như hầu”, “Hoa tiên”, “Nguyễn Du và Truyện Kiều”, “Thơ xuân đời Hồng Đức”, “Thơ Hồng Đức bổ chính”, “Thơ vịnh sử đời Hồng Đức”, “Hạnh thục ca”… được Nguyễn Văn Tố nghiên cứu và viết lại bằng tiếng Pháp, tiếng Hán, tiếng Việt đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao dân trí, giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân. Thống kê từ năm 1941 - 1945, trên Tạp chí Tri Tân, Nguyễn Văn Tố đã có tới 114 mục bài mang tính chuyên sâu trên các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Cụ là người Việt Nam duy nhất được phép sửa văn Pháp cho mọi bài viết đăng trên Tập san Viễn Đông Bác Cổ (BEFEO), kể cả bài viết của Giám đốc người Pháp George Coedès.
Đi đầu trong tổ chức xóa nạn mù chữ
Từ năm 1934 đến năm 1946, trên cương vị là Hội trưởng Hội Trí Tri, cụ Nguyễn Văn Tố đã có những đóng góp mang ý nghĩa tạo tiền đề cho công cuộc chấn hưng đất nước ở những giai đoạn sau.
Năm 1938, cụ được cử làm Hội trưởng Hội Truyền bá chữ quốc ngữ Bắc Kỳ. Theo báo cáo của Hội trưởng Nguyễn Văn Tố tại Hội nghị Giáo khoa toàn quốc tổ chức vào dịp kỷ niệm 6 năm thành lập (từ 29 đến 30.7.1944 tại Hà Nội), thì Hội Truyền bá Quốc ngữ Trung ương đã mở được 17 chi nhánh ở Bắc Kỳ với 820 lớp học, có 2.903 giáo viên đã dạy cho hơn 41 nghìn người biết đọc, biết viết, và ở khu vực Trung Kỳ thành lập 11 chi nhánh (theo báo Trung Bắc, chủ nhật số 214, ngày 6.8.1944). Đồng thời, thu hút nhiều nhà trí thức tên tuổi tham gia, như Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Xiển, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Văn Giáp, Hoàng Xuân Hãn… Riêng ở Hà Nội, trong 2 năm 1938 - 1939 đã mở được 4 khóa học, với hơn 4 nghìn học viên, phần lớn là anh chị em công nhân và nhân dân lao động ở ngoại thành. Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ “thật là một công cuộc phát triển văn hóa quan trọng” như Nghị quyết Xứ ủy Bắc Kỳ tháng 8.1938 đã nhận định và “là trường học văn hóa rất rộng lớn cũng là trường học yêu dân, yêu nước” như báo Tin tức của Đảng đánh giá.
Trong 7 năm (1938-1945), dưới danh nghĩa là một hội hoạt động văn hóa - giáo dục, nhưng thực chất đây là tổ chức có sự tham gia của nhiều nhà chính trị và đã có những đóng góp to lớn đối với việc tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh trong quần chúng nhân dân. Nhiều hội viên Hội Truyền bá chữ quốc ngữ trở thành những chiến sĩ cách mạng, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thành công, trong hoàn cảnh thực dân Pháp tìm mọi cách ngăn trở, nhưng đã có gần 7 vạn người thoát nạn mù chữ, là vườn ươm cho ngành Bình dân học vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lập ra. Phong trào truyền bá chữ quốc ngữ trở thành nòng cốt của cuộc vận động diệt “giặc dốt” và phong trào “bình dân học vụ” do chính quyền cách mạng chủ trương. Trong thành quả chung của các trí thức tiến bộ, hội viên Hội Truyền bá chữ quốc ngữ và nhân dân, có in đậm dấu ấn của cụ Nguyễn Văn Tố trong thực hiện sứ mệnh nâng cao dân trí.
Năm 1941, Nguyễn Văn Tố tham gia sáng lập Tạp chí Tri Tân và là cộng tác viên chủ lực nhất của tờ tạp chí nổi tiếng này cho đến cuối năm 1945. Tạp chí Tri Tân ra đời là để “ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vi sư hĩ” - ôn lại việc xưa biết việc nay và việc sau có thể làm thầy thiên hạ, từ đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp nâng cao trình độ văn hóa của đại chúng. Tính chất toàn diện, uyên bác, thông thái và rất mực yêu nước của học giả Nguyễn Văn Tố được công bố từ năm 1907 đến năm 1946 và đã được đăng tải trên Tạp chí Tri Tân và Thanh Nghị…
Hai công trình đồ sộ “Đại Nam dật sử” và “Sử ta so với sử Tàu”2 của Nguyễn Văn Tố, hiện đã ra mắt bạn đọc chính là được cụ rút ra từ những bài đã viết trên hai tờ Tạp chí Tri Tân và Thanh Nghị, với mong muốn làm sâu sắc thêm lịch sử nước nhà và góp phần tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, nêu cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
_________________
1. Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb Tiến bộ, Hà Nội, 1985, tr.75-80
2. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử và Sử ta so với sử Tàu, Xưởng in Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 1996
Sự ra đời của Hội Truyền bá quốc ngữ với sự tham gia của đông đảo hội viên, đặc biệt là các hội viên Hội Trí Tri trong hoàn cảnh chỉ có 2 người biết đọc, biết viết trong 100 người nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng và ủng hộ. Tính đến năm 1938, số người theo học là 700, bước sang năm 1939 số lượng tăng lên do Hội mở thêm hai trường ở phố Sinh Từ và Chợ Hôm. Đến năm 1940, số học sinh theo học các lớp của Hội là 1.800 người, học tại 9 khu ở nội thành Hà Nội. Trong bối cảnh Việt Nam chưa có một nền giáo dục phổ thông đại chúng, sự hoạt động tích cực của Hội đã phổ biến được nhiều kiến thức học vấn đến với mọi người dân. Sự hoạt động tích cực của các hội viên Hội Trí Tri và nhất là hội viên Hội Truyền bá chữ quốc ngữ đã dẫn đến sự phát triển không ngừng của hệ thống trường học ở Bắc Kỳ. |