Không nhân nhượng những việc đi ngược lợi ích dân tộc

Nguyễn Bình thực hiện 06/10/2018 07:19

Với GS. TSKH NGUYỄN MẠI, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, một nguyên tắc mà nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã căn dặn gần 30 năm trước, từ những ngày đầu thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nguyên giá trị. Đó là, chúng ta thu hút đầu tư nhưng phải bảo đảm lợi ích của dân tộc, không nhân nhượng những việc mà nhà đầu tư nước ngoài vi phạm tới nguyên tắc này.

Những quyết định dũng cảm

- Ông có thời gian dài được làm việc với nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười trong xử lý những vấn đề rất nóng của kinh tế đất nước từ những năm 1988 như chống lạm phát, thu hút đầu tư nước ngoài. Ông có thể chia sẻ điều gì về nguyên Tổng Bí thư?

- Thế hệ của chúng tôi rất may mắn được làm việc với các nhà lãnh đạo cấp cao luôn vì dân, vì nước. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười là một trong số những nhà lãnh đạo như vậy.

Năm 1988, tình hình đất nước rất gay cấn, không chỉ là năm lạm phát phi mã nhất, lên tới 3 con số mà còn là khủng hoảng kinh tế - xã hội, đến mức như Đảng ta đã nói là “cả nước làm không đủ ăn”, tất cả nhờ vào viện trợ nước ngoài. Vì vậy, việc đấu tranh chống lạm phát để khắc phục nhanh chóng, hiệu quả tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội là công việc quan trọng nhất lúc bấy giờ. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã lập ra một tổ chống lạm phát do ông trực tiếp làm Tổ trưởng và có vai trò quyết định đối với vấn đề cam go này. Với rất nhiều chính sách được thực thi, trong đó có chính sách chống lạm phát rất thành công, đến năm 1990, chúng ta không chỉ khắc phục được tình trạng lạm phát phi mã, thiếu đói mà còn xuất khẩu được gạo ra thế giới.

Tổng Bí thư Đỗ Mười trong một lần về thăm và làm việc tại tỉnh Sơn La Nguồn: VOV
Tổng Bí thư Đỗ Mười trong một lần về thăm và làm việc tại tỉnh Sơn La Nguồn: VOV

- Những quyết định nào của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười trong công cuộc chống lạm phát mà ông ấn tượng nhất?

- Tháng 3.1988, lạm phát lúc bấy giờ vào khoảng 11%/tháng. Chúng ta phải in tiền ở Liên Xô cũ mà chi phí toàn bộ in tiền ở Liên Xô cũ về đến Việt Nam là khoảng 5% mệnh giá tiền tệ, cả tiền lớn, tiền nhỏ. Sau khi bàn bạc và có tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, Tổ chống lạm phát thấy rằng, phải áp dụng chính sách lãi suất dương, tức là, lãi suất tiền tiết kiệm của nhân dân phải cao hơn tỷ lệ lạm phát. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười sau khi cân nhắc đã quyết định áp dụng lãi suất tiền gửi tiết kiệm 13%, cao hơn 2% so với tỷ lệ lạm phát. Và quả thực, người dân có tiền đã đem gửi vào tiết kiệm. Việc này đem lại 2 cái lợi: một là, không phải in thêm tiền mới vì in thêm tiền mới sẽ mất thêm 5% giá trị, làm vật giá tăng khiến lạm phát càng cao hơn. Hai là, khắc phục được cơ bản lạm phát. Đến tháng 5.1988, lạm phát đã xuống dưới 6%, lãi suất tiền gửi tiết kiệm xuống còn 8%. Đến tháng 9.1988, lạm phát xuống còn 3%, lãi suất tiền gửi tiết kiệm xuống còn 5%.

Tuy nhiên, một thách thức mới xuất hiện. Khi lãi suất tiền tiết kiệm giảm xuống thì tâm lý của người dân bắt đầu không tin và bắt đầu rút tiền ra. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì rất nguy hiểm. Ông Đỗ Mười theo dõi sát sao tình hình này. Hàng đêm, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đều gọi điện cho lãnh đạo các địa phương, đặc biệt là Hà Nội. Ông gọi cho cá nhân tôi, (lúc đó là Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội) để nắm bắt tình hình. Tôi báo cáo với ông, “thưa anh, hôm nay người ta vẫn tiếp tục rút. Nhưng anh yên tâm” vì đây là yếu tố tâm lý của người gửi không tin Nhà nước có đủ tiền. Chúng tôi đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước của Hà Nội “ém” đủ tiền cho tất cả các quỹ tiết kiệm. Ai rút tiền đều rút thoải mái, không có gì cản trở. Mùng 1.9, người ta rút tiền, 2-3.9, vẫn tiếp tục rút tiền. Nhưng ngày 4.9, bắt đầu ngừng rút. Chúng tôi báo cáo với ông “chắc chắn ngày mai, người ta sẽ bắt đầu gửi vào”. Và đúng thế thật. Đến 5.9 thì tiền bắt đầu gửi vào vì người ta biết rằng, Nhà nước không phải là thiếu tiền mà do lạm phát xuống nên giữ khoảng cách 2% trên lạm phát thì người gửi tiết kiệm vẫn có lãi. Ngày 6-7.9, những người đã rút tiền trước đó lại gửi tiền vào. Đến cuối năm thì lạm phát trở lại bình thường. Sang năm 1989 thì lạm phát chỉ còn 1-2%/tháng thôi. Chính nhờ việc đấu tranh với yếu tố tâm lý của người dân như vậy đã góp phần quan trọng làm cho chính sách này thành công.

Những quyết định như vậy của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười vừa thể hiện sự dũng cảm, vừa thể hiện tầm trí tuệ của một nhà lãnh đạo. Nếu lúc đó, ông Đỗ Mười nôn nóng một chút thôi thì có lẽ chúng ta đã không thể làm được. Từ năm 1991, như chúng ta biết là thời kỳ hoàng kim của nền kinh tế Việt Nam. Giai đoạn 1991 - 1998, Chính phủ trình lên QH chỉ dự kiến mỗi năm tăng trưởng khoảng 5% thì thực tế, tăng trưởng bình quân là 8,5 - 8,6%, cao hơn rất nhiều so với dự kiến.

Luôn đúc kết từ thực tiễn, một lòng vì dân, vì nước

- Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đã được thực hiện tròn 30 năm nhưng từ những ngày đầu tiên, dấu ấn của nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười trong lĩnh vực này đã rất đậm nét, thưa ông?

- Đúng vậy. Năm 1987, một vấn đề tranh luận trong cán bộ cấp cao là có nên cho đầu tư 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam hay không vì chúng ta muốn tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài nhưng cũng lo lắng về an ninh, chủ quyền của quốc gia. May mắn là khi ấy, chúng ta có 2 nhà lãnh đạo, phải nói là đã rất dũng cảm quyết định việc đại sự này là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười. Sau khi nghe tranh luận, hai nhà lãnh đạo đều thấy rằng, Việt Nam muốn thu hút đầu tư nước ngoài trong điều kiện đất nước mới mở cửa thì phải làm tốt hơn các nước xung quanh. Đầu tư nước ngoài là cuộc cạnh tranh rất gay gắt. Khi ấy, các nước xung quanh như Thái Lan, Malaysia, Indonesia... chưa thu hút đầu tư 100% vốn nước ngoài mà chúng ta có chính sách này thì sẽ tạo ra động lực, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài thấy rằng, Việt Nam thực sự mở cửa. Và cuối cùng, QH đã thông qua đạo luật đầu tiên về thu hút đầu tư nước ngoài với việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn ở Việt Nam.

- Năm 1989, Nhà nước quyết định thành lập Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư để hiện thực hóa chính sách quan trọng này. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có những chỉ đạo như thế nào đối với hoạt động của Ủy ban khi ấy, thưa ông?

 - Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư là cơ quan mới, lần đầu tiên được thành lập để tiến hành một nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Lúc đó, việc đầu tiên mà Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười làm là chọn hai Bộ trưởng rất “cứng”, có trình độ, rất tâm huyết là Bộ trưởng Đậu Ngọc Xuân và Bộ trưởng Võ Đông Giang, một người rất am hiểu về kinh tế trong nước và một người rất am hiểu về đối ngoại phụ trách Ủy ban này. Mặc dù vậy, ông vẫn trực tiếp tới nghe báo cáo về tình hình hoạt động đầu tư nước ngoài. Thậm chí, có những dự án, ông thấy cần phải nghe kỹ mới quyết định được như dự án 650 triệu USD đầu tiên của Singapore đầu tư vào bến cảng trung chuyển ở Vũng Tàu (Sao Mai - Bến Đình) theo hình thức BOT. Ông rất cân nhắc vì BOT là lần đầu tiên có ở nước ta. Ông gặp chúng tôi, hỏi kỹ về việc làm dự án này thì được cái gì, mất cái gì, vì sao phải làm những việc như vậy. Sau khi nghe chúng tôi báo cáo tất cả lợi ích và những việc cần đề phòng, Ông và các nhà lãnh đạo mới đi đến quyết định cho làm dự án.

Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đánh giá rất ngắn gọn nhưng rất đúng về đầu tư nước ngoài, đó là, “nếu không có đầu tư nước ngoài góp vào khoảng 30% tổng đầu tư xã hội thì chúng ta chỉ tăng trưởng được 5% thôi. 3,5 - 3,6% còn lại chính là nhờ đầu tư nước ngoài”.

- Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười cũng đặt ra những nguyên tắc không thể nhân nhượng khi thu hút đầu tư nước ngoài, thưa ông?

- Khi về làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, tôi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười gọi đến nhà riêng trao đổi. Ông nhắc nhở chúng tôi, làm đầu tư nước ngoài có nghĩa là phải gặp gỡ các nhà đầu tư quốc tế nên có 3 việc rất quan trọng phải thực hiện. Một là, phải lịch sự, thể hiện được bản lĩnh của người quản lý nhà nước Việt Nam; thể hiện được đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước rất thân thiện, để các nhà đầu tư nước ngoài thấy yên tâm, được bảo đảm khi họ đầu tư. Hai là, phải giữ đúng nguyên tắc: Việt Nam mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài nhưng phải bảo đảm lợi ích của dân tộc, không nhân nhượng những việc mà nhà đầu tư nước ngoài vi phạm tới nguyên tắc này. Ba là, Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư là một cơ quan mới nên sẽ bị ảnh hưởng bởi quán tính cũ nên lãnh đạo Ủy ban phải xây dựng được một cơ quan đủ năng lực, phẩm chất cán bộ và cách làm việc hiện đại để các nhà đầu tư thấy, vào Ủy ban là vào tương lai của Nhà nước Việt Nam. Từ tiếp cận ban đầu với lãnh đạo Ủy ban như vậy để người ta yên tâm làm việc với chúng ta.

Đã gần 30 năm, nhưng những lời căn dặn của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là nguyên tắc không nhân nhượng những việc đi ngược với lợi ích quốc gia, dân tộc.

- Nếu đúc kết ngắn gọn về nguyên Tổng Bí thư, với ông, hình ảnh đó như thế nào?

- Hiếm có nhà lãnh đạo nào ở đất nước ta lại trải qua nhiều công việc như đồng chí Đỗ Mười, từ công việc ở tỉnh, ở khu cho đến khi lên Trung ương, làm Thứ trưởng, Bộ trưởng Nội thương, rồi làm tổng thanh tra, về Bộ Xây dựng, làm Ủy ban Vật giá, Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế, làm cải tạo công thương nghiệp...  cho đến khi đảm đương trọng trách cao nhất là Tổng Bí thư của Đảng. Lãnh đạo đất nước đúng vào điểm nhiều cam go, thử thách kể từ khi tiến hành Đổi mới, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có những quyết định dũng cảm, tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước mà xuất phát điểm của những quyết định ấy chính là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì lợi ích của nhân dân. Ông là Nhà lãnh đạo luôn đúc kết từ thực tiễn, nắm rất kỹ đường lối của Đảng và một lòng vì dân, vì nước nên chỉ đạo bất kỳ công việc nào cũng rất thành công. Thế hệ chúng tôi rất may mắn khi được làm việc và trưởng thành từ sự chỉ dạy của ông.

- Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!

Nguyễn Bình thực hiện