Giải quyết “ách tắc” các vụ án về ma túy

Hà An 06/08/2018 07:41

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) đã có những quy định bổ sung, cập nhật các chất ma túy mới; bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội về ma túy. Đây là những sửa đổi, bổ sung rất quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy trong tình hình mới. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của tội phạm này, trong quá trình giải quyết vẫn gặp nhiều vướng mắc. Để thực thi có hiệu quả Bộ luật, cũng như bảo đảm khách quan, chính xác trong xét xử, bảo đảm không làm oan sai của các cơ quan tiến hành tố tụng, cần có quy định hướng dẫn cụ thể về giám định các chất ma túy để xác định khối lượng, hàm lượng các chất ma túy.

Trong quá trình xét xử các vụ án liên quan đến ma túy, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ sở nghiên cứu về tội phạm này vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về các hành vi trong cấu thành tội phạm, chưa thống nhất nhận thức về các dấu hiệu, đặc biệt là dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm. Điều này dẫn đến khi giải quyết, nghiên cứu quy định Bộ luật Hình sự về các tội phạm ma túy còn tồn tại tình trạng mâu thuẫn, nhầm lẫn trong việc định tội danh, hệ quả dễ dẫn tới hoạt động điều tra, truy tố, xét xử không bảo đảm nguyên tắc đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bởi vậy, việc phân biệt một số tội phạm về ma túy có liên quan để giải quyết triệt để trong thực tiễn là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết.

Ông Trần Đình Hải – Giảng viên Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội

Bỏ tử hình đối với 2 tội về ma túy

Liên quan đến tội về ma túy, một trong những điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) là đã quy định cụ thể, rõ ràng mức tối thiểu đến mức tối đa định lượng các chất ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự trong từng điều luật và từng khoản của điều luật. Đồng thời, bổ sung quy định xử lý hình sự đối với hành vi buôn bán, vận chuyển các chất ma túy mới như chất XLR-11 (được tẩm ướp trong cỏ Mỹ) vào cấu thành các tội: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248), Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251) và lá cây khat (có chứa chất ma túy cathinone) vào các điều khoản tương ứng của Tội tàng trữ trái phép chất ma túy... Đây là các chất có mức độ nguy hại nghiêm trọng đến sức khỏe của con người, tuy vậy, các loại cây này lại chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999 cũng như Bộ luật Hình sự 2015, do đó chưa có cơ sở pháp lý để xử lý hình sự đối với người thực hiện.

Xác định tội phạm về ma túy gây hậu quả rất lớn cho xã hội, nên Bộ luật lần này vẫn duy trì hình phạt tử hình trong một số tội như Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy và Tội mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng về giảm hình phạt tử hình được thể hiện trong Nghị Quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị Quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo vệ quyền con người nói chung và quyền sống nói riêng của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự hiện hành đã bỏ hình phạt tử hình đối với hai tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy và Tội chiếm đoạt chất ma túy, chỉ áp dụng mức hình phạt cao nhất đối với hai tội này là chung thân.

Chia sẻ về vấn đề này, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Nguyễn Đình Quyền cho biết, qua giám sát cho thấy, có những vụ án ma túy, có gần chục đối tượng bị tử hình, đây là điều rất xót xa, vì nhiều đối tượng còn rất trẻ. Đáng nói là, tử hình nhiều như vậy nhưng án ma túy vẫn không giảm. Hình phạt không phải là “cứu cánh” của mọi vấn đề, một trong những nhiệm vụ sửa đổi của Bộ luật Hình sự là cá thể hóa hành vi trong buôn bán, sản xuất, vận chuyển ma túy, để từ đó có chính sách hình sự phù hợp hơn, ông Quyền nói.

Giám định chất ma túy là rất cần thiết

Thực tiễn cho thấy, án về ma túy bị trả hồ sơ điều tra bổ sung tương đối nhiều, điều này có nguyên nhân từ các vướng mắc của các quy định pháp luật. Theo quy định Thông tư liên tịch 17/2007/của Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao “trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất”. Công văn số 234/2014 của Tòa án Nhân dân Tối cao quy định: “Bắt buộc phải trưng cầu giám định hàm lượng trong các chất thu giữ nghi là ma túy để lấy đó làm căn cứ kết tội các bị cáo”. Việc giám định chất ma túy, xác định chính xác khối lượng, hàm lượng chất ma túy trong các vụ án ma túy là rất cần thiết, nhằm bảo đảm tính khách quan, chính xác trong xét xử của tòa án nói riêng và bảo đảm không làm oan sai của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung. Tuy vậy, việc triển khai thực hiện quy định này trên thực tế rất khó khăn.

Về vấn đề này, ông Trần Đình Hải, giảng viên Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội cho rằng, khi giải quyết án ma túy theo quy định này đã bị “ách tắc”. Việc quy định 100% vụ án phải tiến hành giám định để xác định hàm lượng ma túy nguyên chất, trong đó có những vụ bắt giữ được hàng vạn viên thuốc tổng hợp đều phải giám định từng viên, điều này gây tốn kém thời gian, chi phí và thiếu khả thi. Ngoài ra, ma túy tổng hợp luôn có nhiều loại mới, trong đó có những loại chưa lưu mẫu tại cơ quan giám định nên không giám định được hàm lượng. Trong điều kiện thực tế ở nước ta, với phương tiện kỹ thuật, nhân lực hiện có của công an các địa phương, không thể giám định được hàm lượng các chất ma túy. Để thực hiện việc giám định hàm lượng các chất ma tuý thì cơ quan điều tra địa phương phải trưng cầu Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an, điều này sẽ mất thời gian, dễ dẫn đến vi phạm thời hạn tố tụng, ông Hải lưu ý. 

Để gỡ ách tắc khi giải quyết vụ án ma túy, Thông tư liên tịch số 08/2015/của Bộ Công an, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân Tối cao sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17, theo đó, khi thu giữ được các chất nghi ma túy hoặc tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy chỉ cần trưng cầu giám định để xác định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu được. Đồng thời, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm cho việc xét xử đúng pháp luật. Vì vậy, trong quá trình áp dụng Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) cần hiểu đúng tinh thần thông tư này. Điều này có nghĩa là, “nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết” thì “Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật” mà không trả lại hồ sơ cho Viện Kiểm sát Nhân dân các cấp để điều tra bổ sung, cũng như không coi đây là căn cứ hủy án để điều tra lại và không chấp nhận kháng nghị trong thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện Kiểm sát nếu kháng nghị theo hướng phải giám định hàm lượng. Nếu thực hiện nghiêm quy định này sẽ tránh được việc kéo dài giải quyết các vụ án ma túy.

Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị, nghiên cứu phát triển hệ thống án lệ để giải quyết các vụ án ma túy. Bởi, án lệ về ma túy có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách nhanh chóng và kịp thời, bảo đảm khách quan. Theo đó, sử dụng các bản án mẫu của Tòa án Nhân dân Tối cao hoặc các tòa án địa phương để áp dụng cho các trường hợp giải quyết án ma túy tương tự. 

Hà An