Khoảng cách lớn giữa vốn đăng ký và thực hiện
Tính đến ngày 20.3.2017, cả nước thu hút được khoảng 305 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), số vốn đã thực hiện đạt 157 tỷ USD. Như vậy, đến nay còn gần 150 tỷ USD vốn FDI đã đăng ký nhưng chưa thực hiện. GS.TSKH. NGUYỄN MẠI, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cho rằng điều quan trọng nhất ở đây là vốn đăng ký phải là vốn thực hiện.
Vốn đăng ký phải là vốn thực hiện
- Thu hút vốn FDI 6 tháng đầu năm tăng cao, tuy nhiên các dự án lớn đều thuộc lĩnh vực hạ tầng, năng lượng. Theo ông, điều này phản ánh gì về môi trường đầu tư Việt Nam?
Xuất khẩu vải thiều là bài học cần được nhân rộng. Nông dân tỉnh Bắc Giang quen dần với canh tác theo hướng bảo đảm tiêu chuẩn GlobalGAP, doanh nghiệp làm quen dần với đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài; phải mất thời gian 4 - 5 năm để đến nay xuất khẩu vải thiều hàng vạn tấn ra thị trường thế giới. GS.TSKH. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài |
- Việc thu hút FDI vào hạ tầng kỹ thuật đường bộ, đường sắt cao tốc, năng lượng, thông tin là phù hợp với định hướng của Nhà nước. Đối với dự án năng lượng, Chính phủ chủ trương ưu tiên phát triển điện mặt trời, điện gió, điện tái tạo và đã có chính sách khuyến khích khá hấp dẫn. Ví dụ, giá mua điện mặt trời trên 9 cents/kwh và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) ký hợp đồng mua toàn bộ điện thương phẩm của nhà đầu tư. Do vậy, từ đầu năm đến nay, tính cả vốn FDI và đầu tư trong nước đã có hơn 10 dự án năng lượng mới, mở ra triển vọng nước ta có thể tận dụng lợi thế là nước nhiệt đới có tiềm năng to lớn về nguồn năng lượng này.
Đầu tư FDI cần có quan điểm dài hạn khác với thương mại. Dự báo trong 6 tháng cuối năm, vốn đăng ký sẽ tăng thêm. Trong 6 tháng đầu năm nay, vốn đăng ký và cấp mới tăng 54% so với cùng kỳ, với những dự án đã cam kết có khả năng vượt quá con số 30 tỷ USD. Quan trọng nhất trong thu hút FDI đó là, vốn đăng ký phải là vốn thực hiện. Những năm gần đây tốc độ giải ngân vốn FDI khá nhanh, nhiều dự án hàng tỷ USD chỉ trong vòng 1 năm kể từ khi cấp giấy chứng nhận đầu tư đã được đưa vào vận hành. Năm 2017, có thể giải ngân vào khoảng 19 - 20 tỷ USD theo tôi là hợp lý, góp phần vào khoảng 22% tổng số vốn đầu tư xã hội, đồng thời đẩy nhanh tốc độ giải ngân đầu tư công, đầu tư trong nước, vốn ODA thì có thể đạt được tốc độ tăng trưởng 6,7% trong năm 2017.
- Có thể thấy ngoài những đóng góp cho nền kinh tế khu vực FDI thì vẫn còn một số hạn chế như công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường, chưa liên kết với doanh nghiệp trong nước, chưa thực hiện chuyển giao công nghệ... Làm thế nào để khắc phục các hạn chế này, thưa ông?
- Chúng ta đã có nhiều bài học đau đớn về môi trường. Nguyên nhân chính là do yếu kém từ khâu quản lý nhà nước và những người có liên quan đã bị kỷ luật. Các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kinh tế, nếu không quản lý và giám sát chặt thì dễ nảy sinh các vấn đề liên quan đến môi trường, chuyển giá, trốn thuế, lậu thuế, tranh chấp lao động... Cocacola chuyển giá không phải là câu chuyện của riêng Việt Nam mà là của nhiều nước trên thế giới. Việt Nam mất 4 - 5 năm mới buộc được Cocacola nộp thuế. Rõ ràng, đây là yếu kém của hệ thống quản lý thuế, từ luật thuế đến thu thuế, giám sát, cưỡng chế nộp thuế.
Để tác động lan tỏa của FDI đối với doanh nghiệp Việt Nam rõ rệt hơn cần có sự hợp tác giữa hai phía. Các tập đoàn kinh tế quốc tế đầu tư tại Việt Nam cần được khuyến khích bằng chính sách liên kết với doanh nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược dài hạn về thương hiệu, để tham gia cùng các doanh nghiệp FDI vào chuỗi giá trị toàn cầu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng. Đây là vấn đề mà ngành dệt may, da giày đang cố gắng. Như vậy, từ chỗ “núp dưới bóng các ông lớn”, dần dần xuất hiện các thương hiệu của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Loại bỏ những dự án “rởm”
- Hiện nay vốn FDI đã vượt con số 300 tỷ USD, nhưng vốn thực hiện mới đạt khoảng 50%. Theo ông, tại sao số vốn giải ngân lại cách xa vốn thu hút như vậy? Thời gian tới cần có biện pháp gì để nhà đầu tư thực hiện số vốn tồn đọng này?
- Năm 2008 vốn đăng ký là 72 tỷ USD nhưng giải ngân chỉ 8 tỷ USD, điều đó cho thấy một số địa phương chỉ chú trọng thu hút các dự án FDI lớn mà không quan tâm lựa chọn nhà đầu tư có tiềm năng. Do đó rất nhiều dự án 3 - 4 tỷ USD ở giai đoạn 2007 - 2010 không thực hiện.
Điều đáng mừng là từ 2016 đến nay, các địa phương đã rà soát, loại bỏ hàng trăm dự án FDI không thể thực hiện với vốn đăng ký trên 50 tỷ USD. Tuy vậy, theo tôi trong số gần 150 tỷ USD vốn đăng ký chưa thực hiện cần phân làm 3 loại. Thứ nhất, những dự án không thể thực hiện được, theo ước tính của tôi khoảng 70 - 80 tỷ USD, cần đưa ra khỏi con số thống kê để không gây ra ảo tưởng. Thứ hai, những dự án mà nhà đầu tư gặp khó khăn các địa phương nên trao đổi cụ thể để có biện pháp hỗ trợ trong thời gian ngắn nhất nhằm triển khai dự án. Thứ ba, những dự án có vướng mắc về thủ tục hành chính như cấp đất, giải phóng mặt bằng, xây dựng… các địa phương cần giải quyết cụ thể để nhà đầu tư có thể đưa dự án vào hoạt động.
- Nhiều người cho rằng thời điểm hiện nay nên tập trung giải ngân hết số vốn tồn đọng này thay vì cố gắng thu hút thêm vốn mới. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
- Đây là hai vấn đề có liên quan với nhau nhưng không thể không đồng thời tiến hành. Thu hút vốn FDI mới, nhất là của các tập đoàn kinh tế quốc tế lớn, là cần thiết để hình thành các ngành công nghiệp mới và dịch vụ hiện đại. Giải ngân số vốn hơn 100 tỷ USD còn lại là câu chuyện thời sự để vừa đưa vào sử dụng một số dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư từ những năm trước, đồng thời loại bỏ những dự án “rởm” để không gây ảo tưởng về số thống kê vốn đăng ký hiện nay.
- Xin cảm ơn ông!