Ba phương diện đánh giá kết quả

Nhật An 02/07/2017 09:11

Cho dù cải cách quyền hưởng dụng rừng có nhiều hình thức và vô vàn thách thức trong thực hiện, song kết quả cải cách đều được đánh giá trên ba phương diện chính: Cải thiện sinh kế cho cộng đồng, hiện trạng rừng và cân bằng lợi ích.

Cải thiện sinh kế và thu nhập

Kết quả nghiên cứu đối với một số nơi trên thế giới cho thấy, cải cách quyền hưởng dụng rừng đã mở ra cho cộng đồng sống phụ thuộc vào rừng con đường tiếp cận với những nguồn hàng hóa mới phục vụ tiêu dùng và tạo thu nhập. Tuy nhiên, đôi khi nó cũng đi kèm với những hạn chế trong sử dụng những nguồn tài nguyên mà cộng đồng vẫn sử dụng từ trước. Ví dụ, việc áp đặt các hạn chế sử dụng rừng nhằm tạo điều kiện cho tái sinh tự nhiên như ở các điểm nghiên cứu tại Nepal, hay đưa ra các thông lệ không chính thức vào trong quy định như ở khu bảo tồn Kalahan tại Philippines. Trong những trường hợp này, đến thời điểm thích hợp, những hạn chế được bãi bỏ nếu rừng đã được phục hồi.

Có những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả cải cách liên quan đến sinh kế. Thứ nhất, chất lượng rừng giao cho các cộng đồng như thế nào? Nhiều cộng đồng được giao những khu rừng chất lượng thấp với mong muốn hoặc yêu cầu cụ thể đòi hỏi phải dành nguồn nhân lực và vật lực để cải tạo rừng. Tình trạng này khá phổ biến, đặc biệt ở Ghana và các quốc gia châu Á.

Thứ hai, các cộng đồng được phép làm những gì với rừng và tài nguyên rừng? Đôi khi, những quy định đặt ra, cùng sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan lâm nghiệp và các định chế cùng quản lý là những thứ “trói tay” các cộng đồng. Đơn cử, một số hình thức sử dụng rừng nhất định có thể bị cấm; một số quy định có thể trao quyền cho nhân viên lâm nghiệp tự đặt ra những rào cản mà các cộng đồng khó vượt qua; hoặc quy trình cấp giấy phép quá phức tạp, tốn kém và mất thời gian. Ở Nepal, dù có sẵn thị trường gỗ năng động nhưng các cộng đồng bị buộc phải bán gỗ trong cộng đồng mình trước rồi mới được phép bán cho các cộng đồng láng giềng, sau đó mới được bán ra thị trường tự do. Nhất cử nhất động của cộng đồng đều phải có kế hoạch, được nhân viên lâm nghiệp nhà nước phê duyệt.

Thứ ba, sự thiếu khả năng tiếp cận các nguồn tín dụng, công nghệ và thông tin thị trường có thể hạn chế các cộng đồng trong việc sử dụng tài nguyên rừng cho mục đích tiêu dùng tại chỗ. Trong phần lớn các trường hợp có sự cải thiện về mặt sinh kế, cải cách không chỉ thay đổi các quyền hưởng dụng mà còn hỗ trợ về mặt tổ chức, kỹ thuật và kinh tế. Các trường hợp này bao gồm các điểm nghiên cứu nơi có những doanh nghiệp khai thác gỗ, các nhóm cộng đồng sử dụng rừng ở Nepal, vùng thuộc sở hữu do tổ tiên truyền lại ở Kalahan, Philippine, hay đất nhượng quyền cộng đồng ở Burkina Faso. Sự hỗ trợ toàn diện từ bên ngoài chứng tỏ tầm quan trọng của nó trong việc xây dựng năng lực cho cộng đồng, tránh được cơ chế quan liêu trong nước và tiếp cận được thị trường, tất cả đều ảnh hưởng đến những kết quả về sinh kế.

Tác động tới tình trạng rừng

Cải cách quyền hưởng dụng rừng ảnh hưởng đến tình trạng rừng ít nhất theo hai cách. Một mặt, tình trạng rừng có thể được cải thiện khi cải cách trao cho các cộng đồng những quyền trên đất hoang, các khu rừng nghèo và ưu tiên cho việc khoanh nuôi tái sinh theo các quy định của cải cách. Mặt khác, tình trạng rừng có thể xấu đi khi cải cách gây ra nhiều xung đột, như ở Guarayos (Bolivia) thường xảy ra chiếm đoạt đất đai, hoặc dẫn đến cảnh tầng lớp trên chiếm đất trong một số trường hợp ở Cameroon.

Tuy nhiên, các yếu tố can thiệp cũng rất quan trọng, nhất là trong các trường hợp: Rừng được duy trì ở những nơi có sự phụ thuộc cao vào các hoạt động khai thác có tính nông nghiệp, làm tăng động cơ kinh tế để bảo vệ rừng, hoặc ở những cộng đồng có văn hóa gắn kết chặt chẽ với bảo tồn rừng; Tình trạng rừng suy giảm tại những cộng đồng gần các khu vực thuộc địa, hoặc ở những nơi có các lợi ích cạnh tranh khác và có những vấn đề nằm ngoài tầm kiểm soát của cộng đồng như sự tăng dân số.

Tái phân bổ lợi ích

Kết quả phân tích cho thấy, có khá ít bằng chứng chứng tỏ việc tăng các quyền hưởng dụng đơn thuần có tác động tích cực lên yếu tố công bình, nhất là sự tham gia của người nghèo và phụ nữ trong tiến trình ra quyết định và phân bổ lợi ích. Trong một số trường hợp, bảo đảm quyền cho một nhóm này đồng nghĩa với việc giảm bớt hoặc bỏ qua quyền của một nhóm khác, ví dụ như trường hợp của những người chăn nuôi gia súc ở vùng núi cao Nepal. Trong những trường hợp khác, việc xác định “cộng đồng” thực chất nhằm loại những nhóm người khác ra ngoài phạm vi hưởng lợi, như khi cộng đồng Bantu ở Cameroon loại những người Pygmy khỏi cộng đồng của họ. Sự bất công bằng như vậy thường liên quan đến những mối quan hệ giữa người bản địa và dân ngụ cư, hoặc những nhóm sử dụng tài nguyên theo mùa. Quyền gắn kết với các trách nhiệm hoặc những hạn chế sử dụng tài nguyên đôi khi có ảnh hưởng bất lợi đối với người nghèo, ví dụ việc cấm chăn cừu ở vùng cao nguyên Guatemala.

Bên cạnh đó, những nỗ lực nhằm tạo điều kiện để phụ nữ tham gia cũng chưa đạt được nhiều tiến bộ. Nghiên cứu cho thấy, phụ nữ tham gia rất ít trong các nhóm được tổ chức trên cơ sở mỗi gia đình một đại diện, ví dụ các hợp tác xã trồng cây hay các doanh nghiệp khai thác ở Ấn Độ. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy, những kết quả tích cực của cải cách quyền hưởng dụng rừng đối với việc cải thiện tính công bình còn phụ thuộc vào các nỗ lực cụ thể, cũng như quyết tâm giải quyết các nguyên nhân của sự bất bình đẳng.

Nhật An