Hòa quyện Đạo và Đời
Cố Hòa thượng Thích Chơn Thiện đã viết và giảng pháp khá nhiều. Trước khi đi xa, Hòa thượng đã để lại ấn phẩm giá trị và thăng hoa Tư tưởng Việt Nam - Nhân bản thực tại luận. Qua 249 trang với 23 đề mục, Hòa thượng đã làm rõ triết lý, tư tưởng Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, với văn hóa của Giới, Định, Tuệ. Gắn Đạo với Đời, văn hóa Phật giáo với văn hóa dân tộc như con đường dẫn đến hạnh phúc, an lạc.
Đồng bào và Đoàn kết - những giá trị bất biến
Từ chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra 100 trứng và được truyền miệng nói về nguồn gốc dân tộc Bách Việt là “Con Rồng, Cháu Tiên”, người Việt Nam có cùng giống nòi, là đồng bào, với tính cách khác biệt nhưng thống nhất, tạo thành triết lý đoàn kết dân tộc xuyên suốt các chặng đường lịch sử dân tộc: Đoàn kết để ứng phó và chiến thắng trong mọi hoàn cảnh.
Ngay từ buổi đầu dựng nước, các Vua Việt Nam từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên đều lấy hiệu là Hùng Vương, với mong muốn xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng, như một tuyên ngôn của dân tộc. Lý Thường Kiệt là vị nguyên soái tài ba đã tập hợp đại đoàn kết toàn dân xây dựng chiến lũy, chiến hào chiến thắng hơn mười vạn quân Tống và đã có bản tuyên ngôn bất hủ “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Vua Trần Nhân Tông đã thực hiện thành công đại đoàn kết dân tộc, mở hội nghị Bình Than và Diên Hồng theo triết lý Lục hòa (Thân hòa, khẩu hòa, ý hòa, kiến hòa, giới hòa, lợi hòa) để đoàn kết quân - dân, viết nên trang sử lẫy lừng của dân tộc và của Phật giáo Việt Nam. Bài học “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng “Nhân bản thực tại luận” của Việt Nam đã được Nguyễn Trãi vận dụng sáng tạo với Bình Ngô Đại Cáo: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước vì khử bạo...

Cuối thế kỷ XX, Việt Nam bị Pháp đô hộ và Hồ Chí Minh - nhà yêu nước vĩ đại, một nhà văn hóa lớn, một nhà cách mạng lỗi lạc, kiệt xuất và minh triết, đã xuất hiện, mở ra hướng mới của lịch sử dân tộc với triết lý hành động: Dĩ bất biến, ứng vạn biến (lấy cái không thay đổi mà ứng phó với cái luôn thay đổi), khởi sinh từ triết lý Tùy duyên nhi bất biến trong Phật giáo (tùy hoàn cảnh mà giữ cái bất biến). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”. Một là “dĩ bất biến” và chùa Một Cột do vua Lý Thái Tông xây dựng hơn 1.000 năm trước cũng mang ý nghĩa “dĩ bất biến” để xây dựng quốc gia theo triết lý Một. Tư tưởng tinh hoa của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ghi dưới tên nước Việt Nam là hàng chữ: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Hạnh phúc - Đạo đức - Bình đẳng
Phật giáo đã đồng hành với dân tộc Việt Nam, đóng góp vào sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Đạo là Đời, Đời là Đạo. Phật Hoàng Trần Nhân Tông là đỉnh cao của sự gắn bó, hòa quyện này. Khi là Đời, Vua Trần Nhân Tông lo toan đánh giặc giữ yên bờ cõi bằng ý hòa đồng duyệt của hai hội nghị Bình Than và Diên Hồng. Khi là Đạo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông vẫn lo mở mang bờ cõi bằng phương pháp hòa bình, gả con gái cho Vua Chiêm để nhận hai Châu Ô - Lý là vị thế chiến lược về địa - quân sự - kinh tế - văn hóa mở mang bờ cõi.
Có rất nhiều khái niệm về hạnh phúc, nhưng theo triết gia và nhà toán học Spinoza (người Do Thái, thế kỷ XVII): Hạnh phúc và đạo đức chỉ là một. Đạo đức Việt Nam đặt tình người chân thật trong sinh hoạt xã hội. Đấy là: Trung, hiếu, tình, nghĩa, thuận, nhân, tín. Với Phật giáo Việt Nam, đạo đức cơ bản là 10 điều thiện: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thô ác, không nói lời phù phiếm, không tham, không sân, không si.
Toàn bộ giáo lý nhà Phật là hệ thống đạo đức mà đỉnh cao là lòng đại từ, đại bi và trí tuệ giải thoát khổ đau. Còn nền văn hóa Việt Nam là một nền đạo đức hoàn bị. Hạnh phúc không chỉ là đạo đức mà còn là sự công bằng, bình đẳng của con người, của quốc gia, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Tư tưởng tự do, dân chủ, công bằng thực hiện quyền sống của con người với đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã được ghi đậm nét trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013, là nét văn hóa nhân bản và thực tại của Việt Nam.
Sáng tạo là một triết lý giáo dục
Giáo dục được đề cập như một sự trăn trở trong Tư tưởng Việt Nam - Nhân bản thực tại luận. Giáo dục hình thành nên nhân cách của con người để xây dựng nền văn hóa và văn minh của dân tộc. Mọi quốc gia phát triển đều đi từ nền giáo dục. Trong khi đó, con đường Giới, Đinh, Tuệ của Bát chánh đạo là nền tảng phủ khắp các bản kinh của Phật giáo. Văn hóa của Phật giáo nói chung và văn hóa của Việt Nam nói riêng là văn hóa Giới, Định, Tuệ. Trong đó Giới là đạo đức, Định là đạo đức cao hơn và Tuệ là đạo đức rốt ráo. Chỉ có trí tuệ mới có cái nhìn đúng, có tư duy và sáng tạo.
Sáng tạo là cái mới mẻ và hữu ích của con người, là nguồn tâm giải thoát và nguồn tuệ giải thoát. Cái quan trọng của nền giáo dục nước nhà hiện nay là phát hiện sớm nhân tài và nuôi dưỡng khả năng sáng tạo của họ, làm nòng cốt để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo Việt Nam.
Tuy chỉ hơn 200 trang, nhưng Tư tưởng Việt Nam - Nhân bản thực tại luận của cố Hòa thượng Thích Chơn Thiện đã cho thấy, văn hóa Phật giáo gắn chặt với văn hóa dân tộc, tâm “đại từ, đại bi” gắn chặt với “tình đồng bào”, tạo thành sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đây là di sản văn hóa quý báu của Phật giáo Việt Nam và dân tộc Việt Nam, cũng đang là tư tưởng hiện đại Việt Nam. Cho dù còn có những ý kiến khác nhau về triết lý, tư trưởng Việt Nam, nhưng chân lý luôn luôn chiến thắng và tồn tại, như lời kết của Tư tưởng Việt Nam - Nhân bản thực tại luận.