Cởi mở, thông thoáng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp

Văn Thăng lược ghi 14/11/2016 15:02

Trao đổi tại Tọa đàm về Luật Du lịch (sửa đổi) do Báo ĐBND vừa tổ chức, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Tổng cục Du lịch Lê Tuấn Anh cho rằng, dự thảo Luật nổi bật lên tinh thần cởi mở, thông thoáng, tạo điều kiện hoạt động cho doanh nghiệp, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế; Nhà nước phát huy vai trò hậu kiểm, kiến tạo và hỗ trợ doanh nghiệp.

- Thưa ông, là cơ quan giúp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện quản lý về du lịch, Luật Du lịch ra đời năm 2005 đã tạo hành lang pháp lý như thế nào cho việc phát triển ngành Du lịch nước nhà những năm qua?

Ông Lê Tuấn Anh: Luật Du lịch năm 2005 có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển du lịch Việt Nam hơn 10 năm qua, thể hiện rõ ở những điểm sau đây:

Thứ nhất, Luật Du lịch đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch, nhất là Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) xác định “phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”.

Thứ hai, Luật Du lịch đã tạo ra bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức về quản lý và phát triển du lịch. Từ chỗ du lịch chỉ được coi là hoạt động phục vụ nghỉ dưỡng đơn thuần, đến nay đã được xác định là một ngành kinh tế có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và được định hướng phát triển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.

Thứ ba, Luật Du lịch đã tạo hành lang pháp lý quan trọng để quản lý các hoạt động như kinh doanh lữ hành, hướng dẫn viên, khách sạn, các tiêu chuẩn dịch vụ, tập trung nguồn lực đầu tư của xã hội, góp phần hình thành hệ thống sản phẩm, dịch vụ, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch hiện đại, tầm cỡ quốc tế ở Hạ Long, Đà Nẵng, Quảng Nam, Kiên Giang, Khánh Hòa...

Thứ tư, Luật Du lịch đã góp phần luật hóa các quy định của điều ước quốc tế trong lĩnh vực du lịch mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch ngang tầm khu vực và thế giới, thúc đẩy giao lưu, hợp tác du lịch giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập quốc tế.

Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Tổng cục Du lịch Lê Tuấn Anh (Ảnh: Duy Thông)
Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế - Tổng cục Du lịch Lê Tuấn Anh (Ảnh: Duy Thông)

- Thưa ông, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì du lịch Việt Nam chưa vươn lên xứng tầm vị thế, vai trò, tiềm năng. Vậy đâu là hạn chế, bất cập trong phát triển du lịch nước nhà?

Ông Lê Tuấn Anh: Vừa qua, trong quá trình tổng kết thực hiện Luật Du lịch 2005 và đề xuất các chính sách phát triển du lịch, chúng tôi đã tổng kết, đánh giá những hạn chế, yếu kém cơ bản của du lịch Việt Nam, bao gồm: Một là, hệ thống thể chế chính sách phát triển du lịch còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa có các chính sách ưu đãi đột phá, nhất là về tài chính, đất đai, đầu tư, xuất nhập cảnh tạo điều kiện thuận lợi để du lịch phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Hai là, kết cấu hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của du lịch. Chất lượng đường bộ còn thấp, đường sắt lạc hậu, đường thủy còn hạn chế, thiếu cảng tàu du lịch; một số cảng hàng không đã quá tải; kết nối giao thông đến các khu, điểm du lịch chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu các điểm dừng nghỉ có chất lượng.

Ba là, sản phẩm du lịch chưa đồng bộ, chất lượng dịch vụ nhìn chung còn thấp, thiếu điểm đến và sản phẩm du lịch nổi trội, khác biệt, chất lượng cao để cạnh tranh với các nước trong khu vực.

Bốn là, môi trường du lịch cả về tự nhiên và xã hội còn nhiều bất cập, nhất là tình trạng đeo bám, ép khách, cướp giật; không bảo đảm vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm và an toàn giao thông, gây phiền hà cho du khách, ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của du lịch Việt Nam.

Năm là, truyền thông và xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức; nguồn lực còn thiếu và chưa huy động được sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội; chưa xây dựng và định vị được thương hiệu du lịch quốc gia; hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch thiếu chuyên nghiệp, thiếu tập trung thống nhất, hiệu quả còn thấp; chưa phát huy được vai trò của các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.

Sáu là, doanh nghiệp du lịch chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn, nhân lực và kinh nghiệm quản lý hạn chế nên sức cạnh tranh còn thấp; vai trò và hoạt động của các hiệp hội du lịch chưa được phát huy, liên kết giữa các doanh nghiệp còn hạn chế. Chưa thực sự phát huy được vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch.

Bảy là, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch còn hạn chế; hệ thống tổ chức, quản lý nhà nước về du lịch còn nhiều bất cập; việc triển khai các chính sách, pháp luật về du lịch chưa đồng bộ, thiếu triệt để; thiếu các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp du lịch, hỗ trợ cộng đồng tham gia phát triển du lịch; công tác thanh tra, kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu, việc xử lý vi phạm chưa nghiêm.

Tám là, nguồn nhân lực du lịch còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, nhất là cán bộ quản lý nhà nước về du lịch có chuyên môn sâu, nhân lực quản trị doanh nghiệp, chuyên gia hoạch định chính sách, nghiên cứu chiến lược, hướng dẫn viên du lịch. Đội ngũ lao động nghề còn yếu về kỹ năng, ngoại ngữ và thái độ ứng xử. Cơ cấu nhân lực theo nghề, theo vùng miền mất cân đối. Tính chuyên nghiệp, trình độ nghề còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.

- Được biết, dự thảo Luật Du lịch được trình QH tại kỳ họp này có nhiều điểm mới. Vậy đâu là điểm quan trọng nhất trong Dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) lần này, thưa ông?

Ông Lê Tuấn Anh: Dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) nổi bật lên tinh thần cởi mở, thông thoáng, tạo điều kiện hoạt động cho doanh nghiệp, tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập quốc tế; Nhà nước phát huy vai trò hậu kiểm, kiến tạo và hỗ trợ doanh nghiệp. Một số điểm cụ thể thể hiện tinh thần này bao gồm:

Thứ nhất, dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) đề xuất bỏ quy định về kinh nghiệm của người điều hành và có hợp đồng với 3 hướng dẫn viên trong điều kiện cấp giấy phép kinh doanh lữ hành. Theo cơ chế thị trường, để có thể duy trì chất lượng dịch vụ và nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ doanh nghiệp bắt buộc phải lựa chọn những nhân sự phù hợp cho hoạt động kinh doanh lữ hành. Có nhiều người trẻ tuổi được đào tạo bài bản, có thể chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng vẫn điều hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Có người làm trong lĩnh vực khác, chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành nhưng vẫn có đủ khả năng để xây dựng và phát triển hoạt động kinh doanh lữ hành. Vì vậy, quy định về kinh nghiệm trong lĩnh vực lữ hành của người điều hành là không cần thiết. Ngoài ra, khái niệm về người điều hành cũng không rõ ràng, người điều hành có thể được hiểu là chủ doanh nghiệp hay người điều hành hoạt động kinh doanh lữ hành, người sắp xếp, bố trí một số dịch vụ du lịch. Vì vậy, quy định này không phù hợp với thực tiễn. Tùy theo quy mô, doanh nghiệp lữ hành có thể ký hợp đồng với một hoặc nhiều hướng dẫn viên. Đặc biệt kinh doanh lữ hành bị ảnh hưởng rất lớn bởi tính mùa vụ. Trong thời kỳ cao điểm, doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng nhiều hướng dẫn viên, tuy nhiên mùa thấp điểm có thể không có nhu cầu sử dụng hướng dẫn viên. Nếu quy định bắt buộc phải thường xuyên có 3 hướng dẫn viên dẫn đến doanh nghiệp bị tăng chi phí không cần thiết, từ đó xảy ra tình trạng đối phó chỉ ký hợp đồng với hướng dẫn viên trên danh nghĩa.

Thứ hai, dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) quy định về điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên như nhau, không phân biệt hướng dẫn viên du lịch nội địa và hướng dẫn viên du lịch quốc tế. Luật Du lịch 2005 quy định hướng dẫn viên nội địa chỉ cần có trình độ trung cấp hoặc có chứng chỉ nghiệp vụ, hướng dẫn viên quốc tế phải tốt nghiệp đại học và có trình độ ngoại ngữ tương ứng. Quy định này bộc lộ sự phân biệt, xem thường khách nội địa. Trong nhiều trường hợp, khách du lịch Việt Nam có hiểu biết sâu rộng hơn về văn hóa, lịch sử của đất nước, đòi hỏi hướng dẫn viên nội địa cũng phải có kiến thức chuyên sâu bằng hoặc hơn hướng dẫn viên quốc tế. Khách du lịch Việt Nam ngày càng có yêu cầu cao về trình độ, tính chuyên nghiệp của hướng dẫn viên. Theo dự thảo Luật, điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên quốc tế và nội địa là như nhau (trừ điều kiện về ngoại ngữ); bảo đảm hướng dẫn viên nội địa và quốc tế có trình độ tương đương, chỉ phân biệt ngôn ngữ sử dụng nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách du lịch Việt Nam, nâng cao niềm tự tôn dân tộc.

Thứ ba, dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) chuyển điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch từ tốt nghiệp đại học thành tốt nghiệp trung cấp chuyên ngành hướng dẫn du lịch. Năm 2015, Việt Nam đón 7,9 triệu lượt khách du lịch quốc tế, phục vụ 57 triệu lượt khách nội địa và 6 triệu lượt khách đi du lịch nước ngoài. Ước tính, để phục vụ lượng khách du lịch trên, cần tối thiểu khoảng 25.000 hướng dẫn viên quốc tế và 50.000 hướng dẫn viên nội địa. Tuy nhiên, đến nay, cả nước mới có 7.765 hướng dẫn viên nội địa và 10.540 hướng dẫn viên quốc tế, chỉ đáp ứng được khoảng 30-40% nhu cầu thực tiễn. Trong đó, hướng dẫn viên sử dụng tiếng Anh chiếm 54%, hướng dẫn viên sử dụng ngoại ngữ khác chiếm tỷ trọng nhỏ, đặc biệt là hướng dẫn viên sử dụng một số ngoại ngữ ít thông dụng, dẫn đến tình trạng mất cân đối, thiếu hụt hướng dẫn viên ở một số ngôn ngữ. Trên thực tế, tình trạng hướng dẫn viên “chui” xuất hiện ngày càng nhiều tại các điểm du lịch, thậm chí có trường hợp hướng dẫn viên “chui” là người nước ngoài. Đây là một trong những hệ lụy từ việc đào tạo không theo kịp nhu cầu và điều kiện cấp thẻ chưa phù hợp với thực tiễn.

Dự kiến, năm 2016, Việt Nam sẽ đón 9,7 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ 62 triệu lượt khách du lịch nội địa; mục tiêu đến năm 2020 sẽ đón 16-17 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 75 triệu lượt khách du lịch nội địa. Nếu không điều chỉnh các điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch, việc thiếu hụt hướng dẫn viên sẽ ngày càng trầm trọng, dẫn đến hệ quả tình trạng hướng dẫn viên “chui” ngày càng phổ biến, chất lượng dịch vụ hướng dẫn kém vì thiếu tính cạnh tranh. Theo quy luật của thị trường, khi có đủ số lượng hướng dẫn viên, tính cạnh tranh được nâng lên, hướng dẫn viên sẽ phải tự đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Hướng dẫn viên có chuyên môn, kinh nghiệm và ngoại ngữ giỏi sẽ được khách ưu tiên lựa chọn. Vì vậy, quy định này sẽ không ảnh hưởng đến những hướng dẫn viên có trình độ đại học, đang có thẻ hướng dẫn viên.

Thứ tư, hướng dẫn du lịch là một nghề. Người tốt nghiệp trung cấp chuyên ngành hướng dẫn du lịch đã được đào tạo cơ bản trong ít nhất 2 năm, có đủ kiến thức cơ bản và kỹ năng nghề, có khả năng thực hiện tốt vai trò hướng dẫn du lịch. Hệ thống trường chuyên nghiệp đào tạo nghề hướng dẫn của Việt Nam đã đạt chất lượng đáp ứng được nhu cầu của thị trường (từ trung cấp hướng dẫn trở lên). Quy định điều kiện cấp thẻ hướng dẫn viên có trình độ Trung cấp (thời gian đào tạo ngắn hơn, yêu cầu về đầu vào thấp hơn so với đại học) tạo cơ hội cho nhiều người trở thành hướng dẫn viên du lịch, đặc biệt những người có kinh nghiệm và sử dụng thành thạo ngoại ngữ nhưng không có bằng đại học; giải quyết tình trạng thiếu hướng dẫn viên, đặc biệt là hướng dẫn viên du lịch sử dụng một số ngoại ngữ không thông dụng. Với quy định như trên, thị trường sẽ phát huy vai trò điều tiết dựa trên quan hệ cung-cầu hướng dẫn viên theo mùa cao điểm, thấp điểm; các hướng dẫn viên sẽ có động lực và "áp lực" phải liên tục nâng cao trình độ, nếu không sẽ tự bị đào thải. Vai trò của quản lý của cơ quan nhà nước là phải bảo đảm chất lượng đầu vào, kiểm tra việc thực hiện các quy định, bảo đảm có sự cạnh tranh lành mạnh thông qua môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.

Thứ năm, Dự thảo Luật Du lịch (sửa đổi) quy định đăng ký thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch theo nguyên tắc tự nguyện, không bắt buộc: Việc đăng ký, thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch cần được xem là nhu cầu, quyền lợi của cơ sở lưu trú du lịch. Việc công nhận hạng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được coi như một chứng nhận về chất lượng; cơ sở lưu trú du lịch có thể dùng chứng nhận này để phát triển thương hiệu, quảng cáo sản phẩm dịch vụ. Sau khi đăng ký và được xếp hạng, cơ sở sẽ được giới thiệu, quảng bá rộng rãi trong các hoạt động xúc tiến du lịch quốc gia và địa phương. Số lượng khách du lịch đến với cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng sẽ cao hơn so với cơ sở lưu trú không được xếp hạng. Quy định này bảo đảm quyền lợi của khách du lịch: Trước khi đi du lịch hoặc trước khi đặt phòng, khách du lịch thường tìm hiểu thông tin về cơ sở lưu trú du lịch thông qua các trang mạng, lời giới thiệu. Việc cơ sở lưu trú du lịch được cơ quan có thẩm quyền xếp hạng là một yếu tố bảo đảm chất lượng dịch vụ tương xứng với thông tin quảng cáo và số tiền phải trả. Khách du lịch sử dụng dịch vụ lưu trú được cơ quan nhà nước xếp hạng theo tiêu chuẩn quốc gia sẽ cảm thấy an tâm, tin tưởng. Số lượng sử dụng cơ sở lưu trú được xếp hạng sẽ tăng lên từ đó doanh nghiệp sẽ có nhu cầu đăng ký thẩm định xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch. Đồng thời, quy định này thể chế hóa vai trò “bà đỡ” của cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi, tôn trọng, bảo vệ lợi ích, quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp; vận hành theo quy luật thị trường, giảm tác động của biện pháp hành chính.

Hơn nữa, quy định này gắn liền với công tác hậu kiểm, bảo đảm công bằng, cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm hành vi tự công bố hạng sao, lợi dụng quy định mở, thông thoáng để trục lợi. Đề xuất quy định như trên vừa bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp, có thể đăng ký thẩm định hoặc không; vừa có thể hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp mới thành lập có nhu cầu khẳng định chất lượng, thương hiệu; vừa có thể hỗ trợ khách du lịch lựa chọn cơ sở dịch vụ chất lượng. Quy định như trên yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước tăng cường tiêu chuẩn chất lượng, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và công khai, minh bạch.

- Xin cảm ơn ông!

Văn Thăng <i>lược ghi</i>