Những người âm thầm làm nên lịch sử bên cầu Hiền Lương

Theo TTXVN 30/04/2016 09:41

Sông Hiền Lương ơi êm đềm nước chảy/ Nỗi ưu sầu này sông có biết cho chăng?/ Chồng bờ Bắc, vợ bờ Nam/ Chỉ cách nhau tấc gang mà không dám gọi/ Để cho dòng lệ chảy trong tim...

Những câu thơ về đôi bờ sông Bến Hải-Hiền Lương trong những năm tháng dài bị chia cắt đôi miền đã nói lên nỗi niềm đau đớn, xót xa của những người dân Quảng Trị về một thời chiến tranh khốc liệt. Để làm nên những chiến công lẫy lừng trong cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chính là kết quả của niềm tin, ý chí, công sức và xương máu của hàng triệu con người Việt Nam. Cùng chung một mục tiêu duy nhất, những con người bình dị đã không tiếc tính mạng, tuổi xuân dâng hiến cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ quê hương đất nước… 

Giữ cho lá cờ cách mạng luôn tung bay trên đầu Mỹ-Ngụy 

Vào năm 1954, Hiệp định Geneve được kí kết, quyết định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam. Từ đó, đôi bờ Bến Hải-Hiền Lương trở thành 2 xứ sở khác nhau, một bên của độc lập tự do và một bên bị đàn áp, nô lệ. Người dân nơi đây phải gánh chịu nỗi đau chia cắt đôi miền khi vợ xa chồng, con xa cha, mẹ xa con… chỉ cách nhau một bờ sông mà như cách cả cuộc đời. Hơn lúc nào hết, khát vọng độc lập, tự do được nuôi dưỡng trong mỗi con người Quảng Trị nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung bùng cháy dữ dội. 

Ông Quang nhớ về những năm tháng lịch sử Ảnh: Dantri
Ông Quang nhớ về những năm tháng lịch sử                                           Ảnh: Dantri

Sinh ra và lớn lên tại thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh, ông Đinh Như Quang (sinh năm 1948), tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1954. Với tinh thần chiến đấu quả cảm, kiên cường, năm 1964, ông được cấp trên giao phó giữ chức vụ Trung đội trưởng Trung đội Dân quân du kích Hiền Lương. Năm 1967 là khoảng thời gian diễn ra những cuộc đấu tranh khốc liệt nhất khi hàng ngày bom, hỏa tiễn, đạn, pháo của giặc thả xuống vùng giới tuyến. Được giao trọng trách nặng nề phải giữ vững lá cờ cách mạng ở bờ Bắc, vượt qua bao gian khổ, hiểm nguy, ông Quang cùng đồng đội vẫn bám trụ đến cùng để bảo vệ cột cờ trên nền trời quê hương. 

Nhớ về những ngày tháng lịch sử, ông Quang tâm sự: “Khi đất nước bị chia cắt thành 2 miền Nam-Bắc, trong lòng mỗi người dân lúc ấy đều chung một quyết tâm sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ đất nước. Được giao nhiệm vụ bảo vệ cột cờ, tôi thấy rất tự hào và vinh hạnh bởi lá cờ chính là hiện thân cho cách mạng và sự chiến đấu của hàng triệu con người Việt Nam vì một khát vọng thống nhất non sông. Mỗi lần bom đạn của giặc đánh gãy cột cờ thì ngay lập tức chúng tôi dựng một cột cờ mới cao hơn cột cờ lúc trước với nguyên tắc sao cho lá cờ của chúng ta cao hơn lá cờ Mỹ-Ngụy. Bởi lá cờ đỏ sao vàng chính là biểu trưng cho niềm tin của chiến thắng, độc lập, tự do và chính nghĩa của cách mạng”. Lá cờ rộng 120m2, cột cờ cao 37m được người dân bờ Nam xem như kim chỉ nam dẫn đường về với cách mạng bởi ở đó đang có lớp lớp người con đang nỗ lực chiến đấu giành tự do cho quê hương. Trong những ngày cao điểm, quân đội Việt Nam cộng hòa huy động hàng trăm chiếc máy bay ném bom cùng với đạn pháo cỡ lớn từ Dốc Miếu, Cồn Tiên bắn ra, từ Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào với âm mưu phá hủy cột cờ ở phía bắc sông Bến Hải. 

Ông Quang tâm sự: Trong những ngày tháng ác liệt đó, bầu trời Vĩnh Linh ban đêm sáng như ban ngày do bom, đạn của giặc. Anh em chúng tôi thay nhau túc trực bảo vệ cột cờ, rất nhiều cây gỗ lớn cùng lá cờ được quân và dân ta chuẩn bị. Một khi cột cờ này ngã xuống, ngay lập tức sẽ có một cột cờ mới được dựng lên không thể để cho quân thù thắng được. Để bảo vệ được lá cờ, rất nhiều đồng đội của chúng tôi đã mãi mãi ngã xuống... Cuộc chiến bảo vệ lá cờ biểu tượng khát vọng tự do của một đất nước đang chìm trong đau khổ bởi sự áp bức của giặc ngoại xâm được tắm bằng máu của biết bao con người kiên dũng. Họ hi sinh để bảo vệ độc lập, tự do cho quê hương, cho tương lai thế hệ sau được sống trong hòa bình… 

Vững tay chèo, chở người qua sông 

Dù đã ở vào tuổi 80, ông Lê Công Hường, thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh vẫn hào hứng vô cùng khi kể về những kỉ niệm trong những ngày tháng ác liệt. Tham gia chiến đấu từ năm 1954 tại Trung đội Dân quân du kích Hiền Lương. Năm 1967, khi cầu Hiền Lương bị bom đạn của quân thù đánh gãy 1 nhịp cầu, ông được cấp trên giao làm Tổ trưởng Tổ chèo đò với nhiệm vụ chở cán bộ, vũ khí, đạn dược, tù binh và nhân dân qua sông. Đội của ông có 6 thành viên với 2 chiếc thuyền khác nhau, mỗi lượt có thể chở được 40 người qua sông. Ông cho biết, chỉ với 2 chiếc thuyền nhưng trung bình 1 đêm tổ của ông chở được khoảng 900 lượt khách sang sông, trong đó chủ yếu là bà con miền Nam vượt sông ra miền Bắc. 

Nhớ về những tháng ngày ác liệt ấy, ông Hường kể: "Vào những năm 1967-1968, Mỹ-Ngụy bắn phá suốt ngày lẫn đêm. Để đảo bảo an toàn đưa cán bộ và nhân dân qua sông, chúng tôi thường tổ chức chèo thuyền vào ban đêm vòng theo bờ sông để đảm bảo an toàn. Giữa ranh giới sự sống và cái chết luôn cận kề nhưng anh em chúng tôi ngày ấy chẳng biết sợ là gì, chỉ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao đảm bảo cho khách qua sông. Tôi còn nhớ lần đầu tiên bị thương là vào tháng 10 năm 1967, khi chèo thuyền đưa lệnh hỏa tốc sang bờ Nam. Do chèo vào buổi sáng nên máy bay Mỹ phát hiện và dội bom, đạn liên tục, rất may tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trước khi bị thương...". Trong suốt 2 năm liền làm nhiệm vụ, đã bao nhiêu lần ông Hường cùng đồng đội kề cận với cái chết trong gang tấc, thế nhưng ý chí niềm tin vào cách mạng đã giúp ông vượt qua tất cả hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 

Những người lính năm xưa trở về với cuộc sống đời thường vẫn âm thầm cống hiến sức mình cho công cuộc xây dựng đất nước hôm nay. Chia tay những người cựu chiến binh thầm lặng không tiếc máu xương, góp tên mình vào lịch sử giữ nước, chúng tôi vẫn nhớ mãi nụ cười hiền hậu và ánh mắt rực sáng của họ khi kể về quá khứ. Trong vườn nhà ông Quang, nơi trên nền hố bom năm xưa có một người đồng đội ông ngã xuống, một ao sen mới thơm ngát đang nở hoa…/. 

Theo TTXVN