Chính sách trợ giúp xã hội phải gắn với cải cách thể chế

Bảo Anh 09/03/2016 08:27

Mặc dù kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng hệ thống chính sách trợ giúp xã hội của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện và phát triển. Nhiều đạo luật, nghị định, quyết định, chương trình, đề án về trợ giúp xã hội được Quốc hội, Chính phủ ban hành... Nhờ đó đã góp phần hỗ trợ các đối tượng yếu thế vượt qua các rủi ro, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, hệ thống trợ giúp xã hội tại Việt Nam còn phân tán và thiếu tính liên kết đòi hỏi phải có sự đổi mới trong thời gian tới.

Bảo đảm đời sống cho đối tượng yếu thế

Sau gần 30 năm thực hiện, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện và phát triển. Về mặt thể chế đã xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật, chính sách tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện tốt chính sách trợ giúp xã hội. Đến nay, đã có trên 10 bộ luật, luật; 7 pháp lệnh và hơn 30 nghị định, quyết định của Chính phủ; hơn 40 thông tư, thông tư liên tịch và nhiều văn bản có nội dung liên quan quy định khuôn khổ pháp luật, chính sách trợ giúp xã hội. Trong đó có những văn bản quan trọng như Luật Người cao tuổi; Luật Người khuyết tật; Luật Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP; Nghị định số 13/2010/NĐ-CP, Nghị định số 136/2013/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.


Nhờ hoàn thiện về mặt thể chế đó tính đến cuối năm 2015, cả nước đã giải quyết trợ cấp xã hội hằng tháng cho trên 2,643 triệu đối tượng. Trong đó người trên 80 tuổi không có lương hưu là 1.454 nghìn người; người cao tuổi cô đơn thuộc hộ nghèo 85 nghìn người; người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng 896 nghìn người; trẻ em mồ côi không có nguồn nuôi dưỡng 45 nghìn trẻ; người đơn thân nuôi con thuộc hộ nghèo 113 nghìn người; ngoài ra, còn khoảng 50 nghìn đối tượng khác. Kinh phí chi trợ cấp xã hội hằng tháng, cấp thẻ bảo hiểm y tế và hỗ trợ chi phí mai táng cho các đối tượng khoảng 13 nghìn tỷ đồng/năm. Đặc biệt đã từng bước quy hoạch, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội và dịch vụ trợ giúp xã hội. Hiện nay, cả nước có 408 cơ sở trợ giúp xã hội, gồm 194 cơ sở công lập và 214 cơ sở ngoài công lập, được thành lập, hoạt động, kiện toàn theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP, Nghị định số 81/2012/NĐ-CP của Chính phủ. Trong đó, có 31 cơ sở chăm sóc người cao tuổi, 71 cơ sở chăm sóc người khuyết tật, 139 cơ sở chăm sóc trẻ em, 102 cơ sở tổng hợp, 31 cơ sở chăm sóc người tâm thần, 34 trung tâm công tác xã hội với khoảng 10.000 cán bộ, nhân viên.

Kết quả trên cho thấy các chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần hỗ trợ các đối tượng yếu thế vượt qua các rủi ro, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, hệ thống trợ giúp xã hội còn nhiều hạn chế. Điển hình là có quá nhiều văn bản về chính sách trợ giúp xã hội, một đối tượng được trợ giúp bị chi phối ở nhiều văn bản khác nhau; việc thiết kế chính sách chủ yếu mang tính đối phó với tình thế, chưa có tầm nhìn dài hạn dẫn đến tình trạng tản mạn, có lúc chồng chéo, thiếu tính hệ thống, toàn diện. Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên chưa đáp ứng được yêu cầu giúp người dân có được khả năng ứng phó với rủi ro vòng đời, tính hiệu quả và tác động của chính sách trợ giúp xã hội còn khá khiêm tốn.

Cần đổi mới toàn diện

Có thể thấy, là một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị ảnh hưởng của thiên tai và biến đổi khí hậu; đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ giúp xã hội của Việt Nam rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước. Trong đó có khoảng 9,2 triệu người cao tuổi, 7,2 triệu người khuyết tật, 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, gần 5% hộ nghèo, 1,8 triệu hộ gia đình cần được trợ giúp đột xuất hằng năm do thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa… Chính vì vậy, việc đổi mới hệ thống trợ giúp xã hội trở lên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Việt Nam cần thay đổi cách tiếp cận trong việc xác định đối tượng từ cách làm rời rạc, có tính nhất thời cho những đối tượng phát sinh trong một hoàn cảnh cụ thể như hiện nay sang tiếp cận vòng đời với việc xác định những yếu tố rủi ro, dễ tổn thương có tính đặc trưng cho từng nhóm tuổi. Đặc biệt, thay đổi quan niệm từ “cho” sang “hỗ trợ”, “thúc đẩy” thì mới bảo đảm hiệu quả của TGXH cũng như tính bền vững của hệ thống.

Đề cập đến vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Trọng Đàm cũng cho rằng, hệ thống trợ giúp xã hội tuy đã hình thành nhưng chưa được hoàn thiện theo cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ, toàn diện, bao phủ hết đối tượng, gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển trợ giúp xã hội, nhất là trong điều kiện Việt Nam là nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính vì vậy, hệ thống trợ giúp xã hội cần phải được đổi mới một cách căn bản theo hướng coi trợ giúp xã hội từ hoạt động nhân đạo sang quan điểm bảo đảm thực hiện quyền cho đối tượng hưởng trợ giúp xã hội. Trong đó chính sách trợ giúp xã hội là biện pháp, công cụ, tác động để thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn cuộc sống cho bộ phận dân cư không may gặp phải hoàn cảnh khó khăn. Để làm được điều này thì chính sách trợ giúp xã hội phải gắn liền với quá trình cải cách thể chế hành chính nhà nước trên cả phương diện về cải cách thể chế chính sách, cải cách thể chế nghiệp vụ, cải cách thể chế tổ chức thực thi chính sách và cải cách thể chế tài chính. Cùng với đó từng bước nâng cao chất lượng chính sách, bảo đảm sự tương quan với các chính sách xã hội khác. Nghiên cứu, xây dựng chính sách trợ giúp xã hội dựa trên vòng đời sẽ bảo đảm sự thống nhất, hài hòa với các chính sách an sinh xã hội khác, đặc biệt là chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp.

 Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đang lấy ý kiến các bộ, ngành vào dự thảo Đề án “Đổi mới trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2030”. Một trong những nội dung đáng chú ý của đề án là mở rộng diện bao phủ đối tượng trợ giúp; nâng mức trợ cấp xã hội cho người cao tuổi, người khuyết tật trong độ tuổi lao động, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người nhận chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người đơn thân nuôi dưỡng trẻ em và phụ nữ sinh con phù hợp trong từng giai đoạn... Đề án cũng đề cập đến các nội dung khác như: Nghiên cứu xây dựng và thống nhất các khái niệm về TGXH; Xác định vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa trợ giúp xã hội và chính sách về kinh tế, chính sách an sinh xã hội; tiếp cận xây dựng chính sách TGXH theo vòng đời, tăng cường khả năng ứng phó với các loại hình rủi ro khác.

Bảo Anh