Phiêu lãng ở xứ Jorai

Lê Thư 19/02/2016 08:27

“Xứ Jorai” của Jacques Dournes là một ký sự dân tộc học bằng hình ảnh, cho người xem thấy được đầy đủ nét sinh động về đời sống và tâm hồn của người Jarai, người Chăm Pa. Những bức ảnh đen trắng như đối thoại với nhau, kể câu chuyện đã từng diễn ra và đang tiếp tục tồn tại như dòng chảy xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại của các dân tộc này.

Phiêu lãng ở xứ Jorai ảnh 1Yêu để hiểu

Năm 1955, Jacques Dournes được giám mục giáo phận Kon Tum cử đến vùng Cheo Reo (nay là thị xã Phú Bổn, huyện Ayun Pa, Gia Lai) nhưng ông đã đến với người Jarai không trong tư thế của một nhà truyền giáo mà coi đó là một cách nhúng mình vào nền văn hóa mới. Jacques Dournes đã cởi bỏ tất cả những gì của người ngoại quốc để trở thành một người Jarai thực sự. Ông học tiếng bản địa để hòa đời sống của người Jarai, tìm hiểu phong tục, tập quán của họ, cũng đóng khố, mang gùi, cũng đi ra rẫy lúa, rẫy bắp… Ông cho rằng, phải sống như họ để hiểu họ trước đã. “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì phải yêu để mà có thể hiểu. Phải yêu cuộc sống gian khó và bình dị, phải yêu thiên nhiên tinh khôi và say mê vẻ đẹp của nó, phải yêu cái không khí đầm ấm của căn nhà sàn và hơi nóng tỏa ra từ bếp lửa của nó, phải yêu khu rừng ngô và đêm đầy trăng”.

Trải nghiệm văn hóa giúp Jacques Dournes suy niệm ngày càng tinh tế về mối quan hệ giữa Jarai và Chăm Pa, thu thập được số lượng lớn tư liệu văn bản về các khía cạnh đời sống, sinh hoạt, tổ chức gia đình, hệ thống tín ngưỡng, ngữ vựng, thơ phú của người Jarai và đưa nó vào các tác phẩm của mình. Riêng với bộ ảnh Xứ Jorai, Jacques Dournes hoàn toàn dựa trên các tín hiệu thị giác, sử dụng hình ảnh để tạo thành một câu chuyện về sợi dây liên kết văn hóa giữa dân tộc Jarai trên cao nguyên và Chăm Pa ở đồng bằng.

Hòa nhập văn hóa

Những bức ảnh được sắp xếp có chủ ý từ đầu đến cuối và móc nối bởi những dòng chữ viết vội. Những chữ ấy nối nhau từ hình ảnh này qua hình ảnh khác, làm thành các câu và kết cục tạo ra một câu chuyện hoàn chỉnh. Mở đầu là bản đồ vẽ dòng sông Apa rạch một vệt dài nối từ dân tộc Jarai xuống Chăm Pa, bên cạnh là ảnh chụp con sông ấy trong ráng chiều “vắng lặng”; rồi ảnh chụp những chùm hoa lan vắt vẻo trên thân cây giữa rừng với “mùi hương thầm mà đậm”; hình ảnh ngôi nhà dài, dưới sàn là con trâu có “đôi sừng thật quý phái”; cảnh trai tráng “lắc lư” trên lưng voi; cụ bà “tóc bạc mà mắt tinh, cụ cố trông nhà”; ảnh chụp “ông cụ Jorai già nhất còn sống”, chụp cảnh sinh hoạt quanh bếp lửa với chú thích: “Bọn trẻ lắng nghe và rồi đến lượt chúng sẽ truyền lại cho mai sau”. Hay hình ảnh người Jarai làm việc, được ghi chú bằng câu tự sự ngắn gọn: “Cất vó hay dỡ nơm, bố thằng Sim lo nuôi bốn cậu con trai”; “Mẹ cái Hring cán bông và xe chỉ”; về cuối là những bức ảnh người mẹ Chăm bồng con, những tháp Tràm, cô gái Chăm đội bình gốm đi giữa triền cát trắng xóa…

Lật giở từng bức ảnh, đọc các dòng chú thích, đôi lúc ta có cảm giác như tác giả chỉ chụp và ghi lại theo cảm xúc, suy nghĩ vụt lóe lên. Nhưng thực tế, ẩn sau những nét phóng khoáng, tự nhiên đó là cả một bầu suy tư, một tâm hồn cởi mở, yêu thương và tinh thần dấn thân, hòa nhập văn hóa. Mỗi góc chụp, không gian, thời gian… cho thấy tác giả phải có nhiều trải nghiệm, chia sẻ cùng nhân vật trong ảnh cũng như hiểu biết về đặc sắc văn hóa dân tộc. Qua đó, góp phần mang lại cho người xem những hình dung rõ nét hơn về chân dung cuộc sống người Jarai trong những năm 1950 - 1960 cũng như một số nét văn hóa tương đồng giữa người Jarai và người Chăm Pa ở Việt Nam.

Nhà văn Nguyên Ngọc, dịch giả của Xứ Jorai nhận định: “Cuốn sách này cho ta thấy Jacques Dournes vừa sâu sắc, vừa hóm hỉnh nhưng cũng rất trữ tình và đặc biệt có vốn hiểu biết sâu về con người Jarai và văn hóa Tây Nguyên. Tôi xem những bức ảnh, dịch những dòng chữ ghi trên đó, ngắn thôi nhưng khiến cho tôi vô cùng xúc động. Thông qua cách nhìn của ông, chúng ta thấy được con người Jarai đẹp, tươi tắn, tự chủ, tự tin, chân thực và hồn hậu trong đời sống hòa hợp với thiên nhiên núi rừng cũng như thấy được một nền văn hóa Jarai vô cùng đặc sắc…”.

Linh mục Jacques Dournes (1922 - 1993), có 23 năm sống ở Tây Nguyên. Trong đó, từ năm 1945 - 1954, ông ở điểm truyền giáo Kala gần Di Linh, nơi có nhiều người dân tộc Kơho sinh sống, sau đó bị trục xuất về Pháp một thời gian (vì lý do quá đam mê nghiên cứu văn hóa mà sao nhãng việc truyền giáo). Năm 1955, ông được trở lại Việt Nam, sống ở Gia Lai và ở cùng người Jarai 15 năm. Ông có nhiều tác phẩm nghiên cứu về lịch sử, địa lý, văn hóa Tây Nguyên như: Miền đất huyền ảo; Potao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jorai Đông Dương; hay sách liên quan đến những mẩu chuyện truyền khẩu của người dân tộc Kơho và Jarai như: Văn chương truyền khẩu 2 (1979), Tuyển tập Jarai (1988), Tuyển tập Srê (1990); Truyền khẩu và ký ức tập thể (1990)…

Lê Thư