Một ngày ở Làng Hữu nghị Việt Nam

27/07/2015 08:25

Những bàn tay không thể cầm nắm, những đôi chân không thể tự đứng dậy, ánh mắt nhìn không gian lơ đãng, miệng ú ớ mà không thể cất tiếng nói, điều đó khiến các em gần như không thể tự mình làm những việc đơn giản. Các em, không ai khác chính là những “công dân mới” ở Làng Hữu nghị Việt Nam (xã Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội).

17 năm qua, đây là nơi chăm sóc đặc biệt của những cựu chiến binh và con em họ - những người đang phải từng ngày vật lộn với di chứng chất độc da cam. Nơi đây, những người bệnh được sống trong tình người ấm áp, được học chữ, học nghề để hòa nhập cộng đồng và tự vươn lên trong cuộc sống.

Một giờ học của cô và trò lớp Giáo dục đặc biệt 3, Làng Hữu nghị Việt Nam
Một giờ học của cô và trò lớp Giáo dục đặc biệt 3, Làng Hữu nghị Việt Nam

Chiến tranh đã qua, nỗi đau còn mãi!

Khi tôi đến cũng là lúc Đại tá Nguyễn Cao Cử - Phó giám đốc Làng Hữu nghị Việt Nam đang đứng bên bậu cửa sổ để theo dõi tiết học của các em nhỏ trong lớp giáo dục đặc biệt (GDĐB). Những gì đang diễn ra khác hoàn toàn so với suy nghĩ của tôi trước đó, lớp học của các em không ồn ã giọng đọc i tờ như các lớp học bình thường mà tôi đã từng đến, chỉ thi thoảng phát ra vài âm thanh nhỏ, người ngoài không thể nghe rõ. Thấy tôi có vẻ tò mò, đại tá Nguyễn Cao Cử nói với tôi: “Không may mắn như những đứa trẻ khác, các cháu nhỏ trong làng đều bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Các cháu không thể học tập bình thường được. Một câu nói có thể phải tập đọc đi đọc lại cả tháng trời cũng chẳng biết đã nói nổi không, hay có khi nói được nhưng ngày mai lại chẳng nhớ gì…”.

Ông cho tôi biết, ở làng hiện giờ thường xuyên nuôi dưỡng 120 cháu chủ yếu có độ tuổi từ 5 - 20. Các cháu được chia thành 10 lớp, trong đó có 2 lớp kỹ năng sống, 4 lớp GDĐB và 4 lớp dạy nghề. Rồi ông dẫn tôi đi thăm từng lớp học của các em. Đến lớp nào các em cũng đón tiếp tôi rất “nồng hậu”. Có em nói được câu “chào chị”, có em đứng dậy ôm tôi, còn những em không thể nói, không thể đi lại thì dù chỉ bằng ánh mắt, nụ cười hay cái vẫy tay nhè nhẹ tôi cũng thấy các em nhỏ ở đây thật ngoan và đáng mến.

Tôi được cô Nguyễn Thu Huyền (chủ nhiệm lớp GDĐB 3) ưu ái cho dự một tiết học của lớp, chỉ có 13 thành viên thôi nhưng cả cô và trò cùng hòa mình vào tiết học hát khiến không khí trở nên sôi động hẳn. Cô giáo hát, trò hát theo, có khi cùng nhau hát mê say… ê a... bập bẹ như những đứa trẻ lên ba vậy. “Những tiết học như vậy để xóa tan đi bầu không khí căng thẳng của cả cô và trò khi cùng nhau vật lộn với tập đọc và làm toán. Bởi, tập đọc và làm toán đối với học sinh bình thường đã khó, với các em… có khi còn… xa vời quá”- Cô Huyền ngậm ngùi nói.

Các em nhỏ trong các lớp học ở đây, có những em ngoài 20 tuổi nhưng trong suy nghĩ của mình, các em chỉ mới lên 3 - 4. Không nhớ nổi quê quán, không nhớ nổi ba mẹ. Tôi gặp em Nguyễn Thị Chi Mai (20 tuổi) tại lớp học nghề thêu, Chi Mai là đứa trẻ bị thiểu năng trí tuệ, em có thể nói nhưng phát âm không rõ. Trò chuyện với em, phải cố gắng lắm tôi mới có thể nghe thấy em đang nói gì với mình. Khi mới gặp, em nói với tôi quê em ở Hà Nội, bố em làm ở ngân hàng Từ Liêm, một lúc sau em lại nói quê em ở Thái Bình, bố em làm ở xí nghiệp. Em hỏi cả quê quán, cả số điện thoại của tôi, những câu nói vô tư, hồn nhiên mà dễ khiến những thương cảm trong tôi vùng dậy đến không cầm được nước mắt.

Đại tá Nguyễn Cao Cử dẫn tôi đến lớp học nghề may, ở đây, ông chỉ cho tôi em Đỗ Thị Hằng (30 tuổi) một bệnh nhân da cam đang mang trên mình căn bệnh não úng thủy khiến đầu Hằng dị dạng, chân tay teo tóp. Ông nói với tôi, Hằng là con của thương binh Đỗ Văn Địu ở Quảng Bình. Hỏi về hoàn cảnh của em, bác Cử cho biết, bố mẹ cháu sinh được 15 người con, nhưng đều bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, hiện đã chết 12, còn lại 3 chị em, đều bệnh tật nặng nề do di chứng chất độc. Bản thân bố cháu cũng bệnh tật, đau ốm thường xuyên, nên cuộc sống gia đình cháu vô cùng khó khăn. Tất cả đều do hậu quả chất độc da cam/dioxin của Mỹ gây nên… Nói đến đây, chợt tôi nhìn thấy khóe mắt ông rưng rưng, những giọt lệ trực trào, ông ngoảnh mặt nhìn ra khoảng sân rộng mênh mông trước mặt, tiếng thở dài buông thõng…

 Tri ân bằng cả tấm lòng

Ngoài những lớp GDĐB, các em có khả năng tiếp thu khá hơn sẽ được học nghề. Cô Nguyễn Hồng Hải (chủ nhiệm lớp học nghề may) đưa cho tôi một chiếc áo đồng phục mùa đông và nói “đó là sản phẩm do chính các em nhỏ ở lớp làm ra”. Cầm trên tay tấm áo, từng đường kim, mũi chỉ thoạt nhìn không ai nghĩ nó được tạo nên từ những đôi tay không còn đủ ngón, những em nhỏ tật nguyền và khiếm khuyết. 15 năm gắn bó với làng, với các con, Cô Hải tâm sự : “Các con phải gánh chịu di họa do chiến tranh để lại thật tàn khốc. Ngoài dạy cho các con kỹ năng sống, dạy các con tập đọc, làm toán… chúng tôi luôn mong muốn dạy cho các con thật nhiều, nhất là dạy cho các con một cái nghề để sau này về với cộng đồng, các con có thể tự mình chăm lo cho cuộc sống. Đây cũng là cách để chúng tôi chia sẻ một phần nỗi đau chiến tranh với gia đình của các con”.

Rời những lớp học, tôi được “bác” Cử dẫn đến thăm khu nhà ở của các em. Làng có năm ngôi nhà, mỗi nhà nuôi trên 20 em và chỉ có một “mẹ”. Đến đây, tôi thấy rõ hơn tình yêu thương, sự kiên trì, nỗ lực của Ban Giám đốc cũng như tập thể cán bộ, nhân viên trong Làng. Dù khó khăn, vất vả nhưng các mẹ không bận tâm, hằng ngày vẫn tận tâm thắp những ngọn nến nhỏ đầy tin yêu trong tâm hồn trẻ thơ - những đứa trẻ khuyết tật, thậm chí không thể nhận thức cuộc sống.

Cô Nguyễn Thị Hiền, “mẹ” nhà T2 có 9 năm gắn bó với Làng. Cũng như bao người mẹ khác, từ sáng sớm mẹ Hiền dậy đánh thức các em, chỉ bảo và giúp các em vệ sinh cá nhân, dẫn các em đi ăn sáng rồi lên lớp học. Trong lúc các em lên lớp, các mẹ ở nhà dọn dẹp nhà cửa và nhiều công việc không tên khác như đổ bô, giặt màn, vệ sinh giường chiếu... Cô Hiền ngậm ngùi: “Đã vào đến đây là con của các cô hết. Có những cháu, đẻ ra dị dạng đến mức bố mẹ chúng sợ quá “quăng” chúng vào đây. Làng nhận lại, nuôi nấng, dạy dỗ. Cũng đã có đôi ba trường hợp các con được trở về hòa nhập cộng đồng rồi có khi còn lập gia đình nữa. Nhưng ít lắm, mỗi đứa một bệnh, có những đứa suốt đời không thể khỏi được, chỉ nghĩ thế thôi là không cầm được nước mắt...”.

Ngoài 20 tuổi, với đôi chân tật nguyền, đôi tay và khung người dị dạng nhưng em Bùi Thị Hóa (Quảng Bình) được đánh giá là “học viên sáng giá” nhất của lớp học may. Hóa có thể tự tính toán và cắt may nguyên chiếc một sản phẩm áo hoặc quần. Hóa nói: “Biết ơn cô giáo lắm, cô giáo dạy cho may, sau này sẽ về mở hiệu may để kiếm tiền giúp ba mẹ. Em ở đây 5 năm rồi, các cô thương lắm, giờ về nhà sẽ nhớ các cô, nhớ các bạn lắm”.

Tham quan gần hết Làng, từ lớp học cho đến các bếp ăn cùng với bác Cử, có lẽ nếu không hỏi tôi cũng không biết bác Cử chính là “ông Đại tá về hưu” quyết từ bỏ cuộc sống thanh nhàn cùng con cháu để đến với làng trẻ, làm những công việc không hề mệt mỏi. Cũng giống ông Cử, Ban Giám đốc Làng đều là cựu chiến binh. Khi nghỉ hưu, tham gia sinh hoạt Hội Cựu chiến binh, thấy sức mình còn và đặc biệt là thấu hiểu sâu sắc những mất mát, đau thương của chiến tranh, họ muốn làm được điều gì đó cho đồng đội, cho con em họ. Họ tìm các cô giáo, các mẹ được đào tạo bài bản, tâm huyết với nghề để sẵn sàng tình nguyện gắn bó lâu dài với Làng. Cứ thế động viên nhau, người nào cũng vậy, mỗi ngày đi ít nhất từ 7km đến 10km, mưa cũng như nắng, đến với Làng, làm việc quên giờ giấc, với một thù lao không đáng kể.

Hiện nay, Làng Hữu nghị thường xuyên điều dưỡng luân lưu trên dưới 200 người, bao gồm trẻ em khuyết tật và cựu chiến binh của 34 tỉnh, thành phố từ Quảng Nam ra các tỉnh phía Bắc. “Công dân” tới Làng đều được chăm sóc chu đáo, từ chữa trị bệnh tật đến phục hồi chức năng. Trẻ em khuyết tật được quan tâm giáo dục đặc biệt về thể chất và tinh thần, từng bước phát triển kỹ năng sống, học văn hóa và được dạy nghề hướng nghiệp để có thể hòa nhập cộng đồng.

Mặc dù mang trên mình thứ chất độc hóa học kinh khủng, phải gánh chịu di họa chiến tranh ghê gớm như vậy nhưng ngày ngày, các em nhỏ ở Làng Hữu nghị Việt Nam đang cố gắng học tập để chiến đấu lại với bệnh tật, tạo ra nhiều giá trị trong cuộc sống. Chính tình yêu thương, sự tri ân sâu sắc, thầm lặng của tập thể cán bộ, công nhân và các tình nguyện viên ở Làng Hữu nghị Việt Nam sẽ thắp những ngọn nến tin yêu trong tâm hồn trẻ thơ ấy được hồi sinh.