Tòa án có được từ chối yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng?
Cơ sở để đặt ra quy định Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật định, bởi lẽ Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phải bảo vệ tất cả các quyền lợi chính đáng của nhân dân, những yêu cầu chính đáng của người dân phải được giải quyết.
Những yêu cầu chính đáng của người dân phải được giải quyết
Quy định tại Điều 4, Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi): Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng - hiện còn nhiều tranh cãi và ý kiến khác nhau giữa các ĐBQH ngay tại Kỳ họp thứ Chín, QH Khóa XIII. Trước hết, tôi cho rằng, chúng ta đang sửa đổi Bộ luật Dân sự, trong đó cũng quy định về nguyên tắc này. Nếu QH thông qua Bộ luật Dân sự (sửa đổi) thì cũng phải xem xét quy định này trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) nhằm bảo đảm tính tương thích của hệ thống pháp luật. Ngược lại, nếu QH không thông qua dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi), thì có thể bãi bỏ điều luật này trong dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi).
Phải dành sự khó khăn về phía Nhà nước

Xin lý giải thêm. Thứ nhất, cơ sở để Ban soạn thảo đặt ra quy định Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có luật định, bởi lẽ Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, phải bảo vệ tất cả các quyền lợi chính đáng của nhân dân, những yêu cầu chính đáng của người dân phải được giải quyết. Nếu chưa có luật định, đây là lỗi của Nhà nước, không phải lỗi của người dân. Chúng ta phải dành sự khó khăn về phía Nhà nước, chứ không phải đổ hết khó khăn cho người dân. Đó là quan điểm chung.
Thứ hai, chúng ta tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự, quyền chính trị năm 1966 của Liên Hợp Quốc. Tại phần 2, Điều 2, 3 có quy định: những quyền, lợi ích hợp pháp của người dân nếu bị vi phạm, mà quyền, lợi ích đó luật pháp chưa quy định, thì luật pháp phải có biện pháp để khắc phục; các cơ quan hành pháp, tư pháp, luật pháp đều phải có biện pháp để bảo đảm quyền của người dân; trong điều kiện chưa có luật định, thì mở rộng các biện pháp tư pháp để giải quyết quyền của người dân. Để bảo đảm thực thi Công ước mà Việt Nam đã tham gia và ký kết, chúng ta cũng nên nghiên cứu, suy nghĩ thêm về quy định này
Thứ ba, xét về truyền thống như ĐB Nguyễn Thúy Anh (Phú Thọ) đã nêu rõ (tại Kỳ họp thứ Chín), thời Pháp thuộc, 3 Bộ luật Dân sự đều quy định Thẩm phán nào viện lẽ vì luật không quy định, hoặc tối nghĩa, hoặc không đủ để thoái thác không xét xử có thể bị truy tố về sự “bất khẳng thụ lý”, quy định thể hiện tại Điều 5 Dân luật chung và Điều 4 của Dân luật giản yếu áp dụng cho Nam Kỳ và quy định này chịu ảnh hưởng bởi Bộ luật Dân sự của Pháp. Hiện nay, Bộ luật Dân sự của nhiều nước trên thế giới vẫn quy định nguyên tắc này, nếu chúng ta ghi nhận nguyên tắc này chính là sự tiến bộ trong sửa đổi Bộ luật lần này. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải lường hết các mặt trái của nó như ý kiến của một số đại biểu nêu lên. Theo tôi, nhiệm vụ của Tòa án ngoài bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức... thì còn phải bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN, cho nên những sự lợi dụng, khởi kiện để xâm phạm đến chế độ XHCN, Tòa án phải dứt khoát từ chối, thậm chí nghiêm trị nếu như có hành vi trái pháp luật. Điều này chúng ta sẽ có những giải pháp để xử lý. Hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ để gây ảnh hưởng đến chế độ chính trị cũng bị nghiêm trị.
Sẽ thiết kế lại quy định về án lệ cho phù hợp
Về án lệ, Điều 22, Luật Tổ chức tòa án quy định án lệ là những bản án chuẩn mực mà Tòa án các cấp phải nghiên cứu áp dụng; Án lệ vừa mang tính chất tham khảo, vừa có tính áp dụng bắt buộc. Chúng tôi sẽ thiết kế lại quy định về án lệ cho phù hợp. Điều các đại biểu phân vân là hiện nay chưa có án lệ và cũng chưa có quy trình án lệ, chúng tôi đang rà soát lại tất cả những bản án giám đốc thẩm đã xét xử từ trước đến nay, những bản án nào mang tính chuẩn mực, có hàm chứa nội dung quy phạm hướng dẫn những điều luật còn có cách hiểu khác nhau, để áp dụng thống nhất. Nó sẽ trở thành án lệ và sẽ được áp dụng.
Chúng tôi cũng đang xây dựng một quy trình để Hội đồng thẩm phán thông qua một Nghị quyết chung, hoặc Chánh án ban hành một Thông tư để xác định quy trình án lệ. Quá trình phát triển án lệ gồm có: phát hiện án lệ như thế nào, nguồn từ đâu? Sau đó, xây dựng Hội đồng xét sơ bộ để xem xét yếu tố chuẩn mực của án lệ, thực hiện công bố những bản án được coi là án lệ trên truyền thông để các chuyên gia, các nhà hoạt động thực tiễn, nhân dân tham gia cho ý kiến. Khi công luận xã hội đồng thuận với những bản án đó, sẽ có một Hội đồng thẩm định. Hội đồng thẩm định thông qua, những bản án được coi là án lệ mới được trình Hội đồng toàn thể của Tòa án Nhân dân Tối cao đánh giá. Cuối cùng, Chánh án Tòa án nhân dân sẽ ký quyết định ban hành án lệ, để phát triển án lệ.
Đối với áp dụng tập quán, chúng ta đã tham gia vào các Điều ước quốc tế, phải xem xét công nhận những tập án quốc tế nào phù hợp, rồi tập quán của các vùng miền dân tộc, đâu là thuần phong mỹ tục? Xác định những tập quán nào là hủ tục, trái đạo đức xã hội, vi phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cộng đồng, của Nhà nước thì bị loại bỏ.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp DƯƠNG NGỌC NGƯU:
|