Chiến thắng 30.4 và những điều đọng lại

Trung tướng Phùng Khắc Đăng
ĐBQH tỉnh Sơn La
28/04/2015 08:48

Với mỗi người Việt Nam, ngày 30.4.1975 là một ngày lịch sử trọng đại. Ngày nay chiến tranh lùi vào dĩ vãng, đất nước sạch bóng thù xâm lược, ngày non sông thu về một mối, Bắc - Nam nối liền một dải từ địa đầu Lũng Cú đến chót mũi Cà Mau. Vĩ tuyến 17 ngang dòng sông Bến Hải chỉ còn là di tích lịch sử một thời…

Ngày ấy cách đây vừa tròn 40 năm, khi nhận được tin báo tướng Dương Văn Minh Tổng thống cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa tuyên bố đầu hàng. Cả đất nước như vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Những người dân từ già đến trẻ, những sĩ quan và binh sĩ ở khắp các vùng quê, khắp các chiến trường đều lâng lâng trong niềm vui khôn siết, họ ôm nhau vào lòng, họ hô đến lạc cả giọng: chiến thắng, chiến thắng rồi. Cuộc chiến tranh dai dẳng dài ngày mà đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp trên chiến trường với các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, đều lần lượt thất bại và kết cục là họ phải cuốn cờ, cúi đầu, ôm hận ra đi. Lịch sử hiện đại, sẽ làm cho nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự chắc chắn sẽ còn mất nhiều công phu sưu tầm và thời gian nghiên cứu để đánh giá về kết cục của cuộc chiến này. Song dù có đánh giá thế nào, có nghiên cứu thế nào đi nữa thì sự thật đã rõ ràng và Chiến thắng 30.4 vẫn là một chiến thắng có ý nghĩa lớn lao, một mốc son chói lọi của lịch sử đấu tranh giữ nước và khôi phục sự thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam.

Đánh giá về ý nghĩa và tầm vóc của sự kiện lịch sử ngày ấy, Đảng ta khẳng định: “năm tháng trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc như một trong những trang sử chói lọi nhất. Một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và tính thời đại sâu sắc”.

Nhớ lại cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân cả nước, trực tiếp là quân dân miền Nam trực diện tại chiến trường, chúng ta càng củng cố lòng tin và tự hào về sự lãnh đạo tài tình của Đảng trong xử lý chiến tranh, đó là khi cần kiên trì căng kéo đối phương để tạo ra tâm lý bất an cho chúng, đồng thời tranh thủ củng cố thế lực và chúng ta đã thành công. Khi cần tốc độ chúng ta dùng tốc độ thần kỳ “một ngày bằng cả hai mươi năm”. Chính cách ứng xử với chiến tranh và chiến trận của Đảng ta như vậy đã tạo cho quân viễn chinh Mỹ và chính quyền Sài Gòn luôn bị động bất ngờ, nhất là chiến dịch Xuân 1975. Nhiều tướng lĩnh của Mỹ ngụy đã bất ngờ đến sửng sốt, ngạc nhiên, lúng túng đến kinh hoàng trước việc điều hành chiến tranh, chiến trận đĩnh đạc, chủ động và tận dụng triệt để mọi thời cơ để vươn lên làm chủ từng vùng tiến lên làm chủ toàn bộ chiến trường.

Có thể thấy, từ Bộ chỉ huy cao nhất của quân đội nhân dân Việt Nam đến người chiến sĩ cầm súng trên chiến trường trong cuộc tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 toát lên tinh thần nghiêm túc, chấp hành mệnh lệnh của Đảng, của nhân dân và thấm sâu lời dạy của Bác “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Với mưu kế thế trận được đúc rút từ tổ tiên đánh giặc, với thực tiễn của chiến tranh và để có sức mạnh quân sự cho cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975, chúng ta đã dày công xây dựng lực lượng, tăng cường luyện cán, chỉnh quân để khi cần tập trung lực lượng, khi hợp đồng tác chiến ở quy mô lớn, cường độ cao, chúng ta đã hoàn toàn chủ động. Cuộc tiến công tổng lực của quân và dân ta vào hang ổ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn với năm cánh quân hợp vây khác nào như một chiếc thòng lọng khổng lồ đang dần dần thít lại khiến cho chính quyền quân ngụy không kịp trở tay. Những đoàn quân đầu trần chân đất, người súng, người dao, gậy guộc, đòn seo đã rầm rập kéo về các chi khu, các quận lỵ, tỉnh lỵ phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của quân chủ lực và nổi dậy của quần chúng nhân dân, đòn phối hợp tấn công này càng làm cho địch hoang mang hoảng loạn, nhiều nơi tan vỡ đầu hàng rất nhanh. Nói về chiến cuộc mùa Xuân 1975 nhiều nhà nghiên cứu, nhiều chuyên gia quân sự đều có chung một nhận xét: đây là một chiến dịch lớn nhất, được huy động số quân, số người và binh khí, khí tài lớn nhất, hiện đại nhất của quân và dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lúc bấy giờ.

Chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã thống nhất, nhân dân có cuộc sống thanh bình, tuy chưa thật đầy đủ về vật chất song chúng ta có quyền tự hào là người dân của đất nước hòa bình. Những người đã từng gắn bó đời mình trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước thì những ngày tháng năm này lại gợi lên nhiều ký ức. Vui nhiều nhưng đau buồn cũng lớn bởi một lẽ còn biết bao người dân, biết bao đồng đội đồng chí đã anh dũng hy sinh trên chiến trường nay vẫn chưa trở về với đất mẹ, chưa được trả lại họ tên, đây là nỗi khắc khoải khôn nguôi của những người đang sống. Chiến tranh là điều không ai mong muốn, chiến thắng nào cũng có giá phải trả đi kèm. Tấm gương hy sinh anh dũng vì dân, vì nước của các anh hùng liệt sĩ sẽ là động lực để chúng ta đoàn kết, cùng với Đảng, với dân với quân đội anh hùng quyết giữ gìn thành quả cách mạng mà chúng ta phải gian khổ hy sinh mới có được.

<i>Trung tướng</i> Phùng Khắc Đăng <br><i>ĐBQH tỉnh Sơn La</i>