Nghị sĩ - cựu chiến binh Mỹ với việc thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ

Phạm Quốc Bảo 27/04/2015 08:19

Sau chiến tranh Việt Nam, nhiều cựu chiến binh Mỹ và đồng minh từng tham chiến tại Việt Nam đã thăm lại chiến trường xưa, nơi họ đã gây bao tội lỗi cho nhân dân Việt Nam, trong đó có những người là thương gia, các nhà đầu tư, nhà nghiên cứu, chính trị gia, nhà ngoại giao, đặc biệt là các nghị sĩ như John Kerry, John S. McCain, Pete Peterson, Chuck Hagel… Những nghị sĩ - cựu chiến binh này đều cố gắng làm điều gì đó để góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh, thúc đẩy việc bình thường hóa và phát triển quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Mỹ.

Trong phát biểu chào mừng, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhắc lại kỷ niệm gắn bó với Việt Nam từ thời chiến tranh, quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước. New York, ngày 25.7.2013
Trong phát biểu chào mừng, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nhắc lại kỷ niệm gắn bó với Việt Nam từ thời chiến tranh, quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước. New York, ngày 25.7.2013
John Kerry sinh ngày 11.12.1943 tại Colorado, từng là Thượng nghị sĩ từ năm 1985 - 2013 và là Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện. Ngày 1.2.2013 ông được Quốc hội Mỹ và Tổng thống Barack Obama bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao.

Năm 1966, John Kerry gia nhập Hải quân Mỹ, năm 1968 sang Việt Nam chỉ huy tàu tuần tra trên sông rạch ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau ba tháng càn quét tùy nghi bắn hạ, ông bắt đầu chống lại việc binh lính Mỹ bắn chết dân thường. Đầu tháng 4.1969, ông rời Việt Nam về Mỹ trước thời hạn 6 tháng. Tháng 10.1969, ông tham gia diễn thuyết phản đối chiến tranh Việt Nam ở New York. Tháng 1.1970, ông giải ngũ và bắt đầu tham gia các phong trào chống chiến tranh Việt Nam. Ngày 22.4.1971, với tư cách Chủ tịch Hội cựu binh Mỹ chống chiến tranh, John Kerry điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện về chiến tranh Việt Nam, tố cáo những hành vi tàn sát dân thường của binh lính Mỹ tại Việt Nam. Ông nói rằng: “Làm sao có thể yêu cầu một người trở thành người cuối cùng chết ở Việt Nam? Làm sao có thể yêu cầu một con người phải chết cho một sai lầm?”.

Từ tham chiến ở đồng bằng sông Cửu Long đến đấu tranh phản chiến, John Kerry tích cực hoạt động trong các lĩnh vực nhân đạo nhằm thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ hai nước. Từ năm 1984, ông Kerry cùng Thượng nghị sĩ John McCain trở lại thăm Việt Nam nhiều lần với tư cách nghị sĩ trong đoàn tìm kiếm cựu binh Mỹ mất tích trong chiến tranh. Năm 1992, khi ông Bill Clinton đắc cử Tổng thống Mỹ, ông Kerry đã đi đầu trong nỗ lực bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (ngày 11.7.1995). Tháng 12.2014, trên cương vị Ngoại trưởng Mỹ, ông Kerry thăm Việt Nam nhằm trao đổi các biện pháp triển khai quan hệ đối tác toàn diện trên các lĩnh vực trong thời gian tới.

Thượng nghị sĩ John McCain sinh ngày 29.8.1936 tại căn cứ Không quân Coco Solo trong vùng kênh đào Panama do Mỹ kiểm soát. Ông nội và cha của John McCain đều từng là Đô đốc Hải quân, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương. John McCain tốt nghiệp Học viện Hải quân Mỹ năm 1958 và trở thành phi công hải quân lái máy bay cường kích thuộc hàng không mẫu hạm.

Các chiến sĩ tự vệ Hà Nội cứu vớt phi công John S. McCain ở Hồ Trúc Bạch
Các chiến sĩ tự vệ Hà Nội cứu vớt phi công John S. McCain ở Hồ Trúc Bạch
Thiếu tá phi công John McCain thuộc Phi đội tấn công 163, đơn vị USS ORISKANY (CVA-34) đã vào ném bom miền Bắc Việt Nam 23 lần. Ngày 26.10.1967, phi công John McCain lái chiếc máy bay A4-C Skyhawk ném bom Nhà máy điện Yên Phụ bị tên lửa của Tiểu đoàn 61, Trung đoàn 236 bắn rơi ở tọa độ 210100N (Bắc) 1055100E (Đông). Thiếu tá John McCain kịp nhảy dù, rơi xuống hồ Trúc Bạch, bị thương nặng, gẫy chân tay, được các chiến sĩ tự vệ Hà Nội cứu vớt và đưa đến Quân Y viện 108 chữa trị. Sau 5 năm rưỡi bị giam giữ tại Nhà tù Hỏa Lò - “Khách sạn Hilton Hà Nội”, Thiếu tá John McCain được trao trả ngày 14.3.1973. Năm 1981, ông John McCain giải ngũ với quân hàm Đại tá và bắt đầu tham gia hoạt động chính trị. Năm 1982, ông được bầu vào Hạ viện. Năm 1986, được bầu vào Thượng viện và tái đắc cử các năm 1992, 1998, 2004 và 2010. Ông McCain đã tích cực trong việc vận động Chính phủ Hoa Kỳ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Trong bài đăng trên tạp chí Phố Wall ngày 14.3.2013 với tiêu đề Cảm nghĩ sau 40 năm của một cựu tù binh chiến tranh, Thượng nghị sĩ John McCain viết: Tôi đã làm bạn với những cựu thù bốn mươi năm trước. Kể từ khi chiến tranh kết thúc, tôi đã nhiều lần trở lại Việt Nam, một đất nước tươi đẹp và là chủ nhân giàu lòng mến khách. Hầu hết các chuyến viếng thăm của tôi là những chuyến công du chính thức, nhằm tìm người Mỹ bị mất tích trong chiến tranh, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc bình thường hóa quan hệ giữa hai quốc gia, đồng thời thúc đẩy mối quan hệ trong tương lai vì lợi ích của cả hai nước.

Tôi đã kết bạn với những người đã từng là kẻ thù của mình và trở nên quyến luyến nơi mà tôi đã từng chán ghét. Tôi hài lòng nhận thấy rằng Mỹ và Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc xây dựng mối quan hệ tích cực, hữu ích cho cả hai bên, trong đống đổ nát điêu tàn của cuộc chiến tranh mà hậu quả là một bi kịch đối với cả hai dân tộc chúng ta.

Hai nước chúng ta có một quá khứ khó khăn và đau lòng. Nhưng chúng ta đã không ràng buộc mình với quá khứ đó. Bây giờ chúng ta đang đi trên một con đường từ hòa giải đến tình bạn chân thật. Viễn tưởng đầy hứa hẹn này là một trong những bất ngờ lớn nhất và hài lòng nhất trong cuộc đời tôi, điều mà tôi mong đợi sẽ mang lại cho tôi nhiều ngạc nhiên hơn nữa trong những năm tới.

Cựu Đại sứ Douglas Brian “Pete” Peterson sinh ngày 26.6.1935 tại Nebraska, là phi công người Mỹ gốc Thụy Sĩ thuộc Phi đội máy bay chiến đấu chiến thuật, đơn vị 433. Pete Peterson đã bay vào miền Bắc Việt Nam thực hiện trên 65 phi vụ. Đêm 10.9.1966 ông lái máy bay F-4 Phatom II, số hiệu 640832 đánh phá cầu Phú Lương và cầu Lai Vu ở tỉnh Hải Dương. Vào lúc 21 giờ bị bộ đội tên lửa bắn rơi ở tọa độ 212000N (Bắc), 1063000E (Đông). Ông kịp nhảy dù xuống thôn An Đoài, xã An Bình, huyện Nam Sách. Pete Peterson bị thương gãy xương bả vai và cánh tay, trật khớp gối và vỡ xương mắt cá chân. Ông bị ông Nguyễn Văn Chộp bắt làm tù binh và bị giam ở Nhà tù Hỏa Lò 6 năm rưỡi (10.9.1966 – 4.3.1973). Hồi tưởng về lần bị bắn rơi, Pete Peterson đã nói, Lúc bị người dân Việt Nam bắt, rất có thể tôi đã bị giết chết, rất may đã có người ngăn lại và tôi vô cùng biết ơn điều đó.

Sau khi từ Việt Nam trở về Mỹ, Pete Peterson theo học đại học, sau đại học và đỗ tiến sĩ ngành Tài chính tại Đại học Michigan năm 1977, rồi tham gia giảng dạy tại Đại học Florida. Năm 1981, ông Peterson xuất ngũ với quân hàm Đại tá sau 26 năm phục vụ trong Lực lượng Không quân Mỹ (1954-1980). Sau đó ông hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao và trở thành thương gia, chính trị gia (Hạ nghị sĩ nhiệm kỳ 1991-1997), nhà ngoại giao (Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đầu tiên tại Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1997-2001). Từ năm 1991, ông trở lại Việt Nam với tư cách nghị sĩ để khảo sát chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam.

Ông Peterson là một trong những người đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam, xóa bỏ những trở ngại trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, đồng thời đặt viên gạch đầu tiên cho những bước phát triển trong hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước… Không những thế, Pete Peterson còn là con rể Việt Nam.

Chuck Hagel sinh ngày 4.10.1946 tại North Platte, Nebraska, là một chính trị gia và Thượng nghị sĩ (1997-2009). Ông tham chiến một năm tại chiến trường Việt Nam (1967-1968). Ngày 4.12.1967 đến Việt Nam với cấp bậc Trung sĩ, Tiểu đội trưởng thuộc Đại đội B, Tiểu đoàn 2 (Cơ giới), Trung đoàn 47, Sư đoàn bộ binh số 9. Đóng quân tại đồng bằng sông Cửu Long. Chuck Hagel và em trai là Tom Hagel ở cùng một đơn vị và đều bị thương trong chiến trận ở Đồng Nai.

Cuối năm 1968, từ chiến trường Việt Nam trở về, Chuck Hagel phản ánh về sự khủng khiếp của chiến tranh và nói rằng, Không có vinh quang nào trong chiến tranh. Tôi thề làm một việc gì đó để ngăn chặn chiến tranh.

Sau khi trở về Mỹ, Chuck Hagel làm phát thanh viên một thời gian, học đại học và tốt nghiệp Khoa Lịch sử Trường Đại học Nebraska năm 1971. Từ năm 1982 - 1996, ông làm kinh doanh và trở thành triệu phú. Năm 1997, ông được bầu vào Thượng viện và tái cử năm 2002. Năm 1998, hai anh em Hagel sang Việt Nam, trở lại thăm chiến trường xưa (Long An và Đồng Nai). Năm 2009, ông thôi làm Thượng nghị sĩ, trở lại làm giáo sư giảng dạy tại Trường Đại học Georgetown, đồng thời làm Chủ tịch Hội đồng Đại Tây Dương (Atlantic), đồng Chủ tịch Ban Cố vấn Tình báo cho Tổng thống. Ngày 27.2.2013, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Quốc phòng.

Ông Nguyễn Văn Chộp, người đã từng tham gia bắt phi công Mỹ Peterson, nồng nhiệt đón tiếp ông Peterson trong dịp về thăm thôn An Đoài
Ông Nguyễn Văn Chộp, người đã từng tham gia bắt phi công Mỹ Peterson, nồng nhiệt đón tiếp ông Peterson trong dịp về thăm thôn An Đoài
Tháng 5.2014, tại Hội nghị An ninh châu Á lần thứ 13 (Đối thoại Shangri-La) tại Singapore, khi trao đổi về tình hình gây mất ổn định ở Biển Đông, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel cảnh báo, chính quyền Washington sẽ không tiếp tục bị động khi các nguyên tắc cơ bản của trật tự quốc tế bị thách thức.

Cuộc đấu tranh kiên trì, bền bỉ của nhân dân ta trên các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao đã dẫn tới việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27.1.1973. Người lính Mỹ cuối cùng đã cuốn cờ về nước ngày 29.3.1973, chấm dứt sự can thiệp quân sự của Mỹ ở Việt Nam. Trong cuộc chiến này, 58.245 binh sĩ Mỹ đã tử trận hoặc mất tích và 303.644 binh sĩ bị thương. Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta đã đánh cho Mỹ cút và 2 năm sau đó đã đánh cho Ngụy nhào (30.4.1975), đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, 20 năm sau (11.7.1995) Việt Nam và Mỹ mới thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước, trong đó có sự đóng góp tích cực của các nghị sĩ Quốc hội hai nước. Năm 2013, hai nước đã xác lập quan hệ Đối tác Toàn diện - một thành tựu quan trọng nhất trong quan hệ song phương kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao.

Kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Mỹ, là dịp để hai phía cùng suy ngẫm về chặng đường đã qua và mở ra tầm nhìn cho quan hệ hai nước trong tương lai.

Phạm Quốc Bảo