Người đứng bên kia đường (Phần 1)
Truyện ngắn của Ý Nhi
>> Người đứng bên kia đường (Phần cuối)
Khí lạnh bỗng chốc tràn ngập cả căn phòng đóng kín, phủ trùm lên bàn ghế, tủ giường, quần áo, sách vở…
Gió mùa, ông thì thầm, đưa tay đẩy mạnh cánh cửa sơn màu vàng nhạt, rồi tựa ngực vào bệ cửa, nhìn xuống phố. Bên kia đường, có kẻ nào đó đứng trong gió lạnh, nhìn về phía ông, vẻ như chờ đợi giây phút ông mở tung hai cánh cửa. Trong thoáng chốc, ông nghĩ mình vừa bắt gặp một ánh nhìn. Trống ngực ông đập loạn xạ. Để tự trấn an, ông cúi xuống, châm một điếu thuốc. Khi ngẩng lên, ông nhìn thấy một đốm lửa nhỏ trên môi người đối diện. Đốm lửa nhấp nháy một chút rồi chợt bùng lên, lan rộng ra, nhạt dần và lịm tắt. Trước mặt ông chỉ còn lại khoảng không đầy gió. Ông giơ tay chới với, như làm một cử chỉ chào hỏi. Hai cô cậu choai choai bá vai nhau đi qua, ngoái nhìn ông, giơ tay huơ huơ như đáp lời rồi cười phá lên, bước nghiêng ngả trên đường. Gần như tiếp ngay sau họ, một người phụ nữ cúi xuống nhấc đứa nhỏ lên và ấp nó sát vào mình để sưởi ấm. Tiếng cười của đôi trẻ và cử chỉ dịu dàng của người phụ nữ làm ông tĩnh trí. Ông nghĩ, hình ảnh người đàn ông và đám lửa chỉ do mình tưởng tượng ra. Hiệu ứng của cơn gió đầu mùa chăng, ông nghĩ và mỉm cười.
Nhưng ông không ngủ được. Nằm xuống chưa bao lâu, ông đã bật dậy, đi loanh quanh trong gian bếp nhỏ, không biết là muốn tìm kiếm vật gì, cuối cùng, mở vòi nước, rót một ly đầy và uống cạn như kẻ bị khát đã nhiều ngày. Khi nằm lại, ông kéo chăn đến tận cằm, nhắm mắt, nhâm nhẩm đếm, một, hai, ba… nhưng chỉ đến vài chục số ông lại trở dậy, mở tủ sách, tìm cuốn sách viết về cuộc di dân của thế kỷ XX, lật xem mục lục, lấy sợi chỉ màu đỏ làm dấu ở trang nào đó, đặt lên chồng sách đang đọc dở và lại về giường, duỗi thẳng người, cố níu lấy giấc ngủ. Rồi lại cảm thấy vướng víu vì chiếc chăn mỏng, ông lật tấm chăn ra, dùng chân dồn đống nó về cuối giường, nhổm người lên, nhìn chằm chằm bức tường màu trắng đã đục mờ trong ánh sáng của ngọn đèn đêm, làm như nó là nguyên cớ của cơn mất ngủ. Chỉ đến khi rời giường thêm một lần nữa, mở máy và gõ liên tục cụm từ Stand by me, ông mới à lên, chợt hiểu. Ông loay hoay cả buổi tối chỉ cốt để cưỡng lại cái điều thôi thúc thực sự, là lại gần ô cửa, mở tung ra và nhìn xuống đường.
Ông không thể giải thích mối liên hệ giữa con người đứng bên kia đường trong gió lạnh với cụm từ Stand by me bất chợt hiện lên trên màn hình vi tính.
Ngồi thừ người nhìn những con chữ rồi ông chậm rãi di chuột xóa từng cụm từ Stand by me. Khi chỉ còn lại cụm từ sau cùng, ông lưỡng lự không nhấp chuột và bất chợt nhớ đến lời của ca khúc tuyệt vời ấy. Bất kể bạn là ai/ bất kể bạn đi đến đâu trong cuộc đời mình/ vào một thời điểm nào đó/ bạn sẽ cần một người bên cạnh…/ và khi màn đêm buông xuống/ khi mặt đất trở thành tối tăm/ chỉ còn ánh trăng soi trên đường/ không, tôi sẽ không sợ hãi/ khi mọi người đến bên tôi/ ôi yêu dấu em, hãy đứng bên tôi, hãy đứng bên tôi/ và cho dù bầu trời trên cao kia sụp xuống/ và núi kia bị cuốn trôi ra biển/ thì em ơi/ tôi sẽ không khóc, không rơi lệ/ khi có em, có em mãi mãi đứng bên tôi/ đứng bên tôi…
![]() Minh họa của Đặng Hồng Quân |
Chiều đó, một buổi chiều gió lạnh, sau ngày vợ qua đời ít lâu, ông cùng đứa con trai út, đi qua các đường phố, các công viên, các nhà ga như hai kẻ lang thang vô định. Ông chợt nghe vang lên giọng hát trầm ấm, thiết tha, ôi yêu dấu em, hãy đứng bên tôi, hãy đứng bên tôi, hãy đứng bên tôi… Tại một góc phố, hình như là góc phố Santa Monica, phải, góc phố yên vắng ấy. Hai cha con ông nhập vào đám đông đang lặng đi trong giọng hát của ca sĩ da đen. Khi bài hát kết thúc, ông nhìn thấy nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt non dại của đứa con. Cách nào đó, đứa trẻ đã biết đến nỗi cô đơn, đến niềm mong mỏi có ai đó đứng bên mình. Ông lặng im siết chặt tay con.
Sau này, ông biết người hát là ca sĩ Roger Ridley, một ca sĩ nổi tiếng. Với Stand by me, Roger đã đem lại thành công cho chương trình Playing for Change, chơi nhạc để đem lại sự đổi thay, do Mark Johnson sáng lập. Bài Stand by me đã được nhiều ca sĩ khác trình diễn tại nhiều nơi trên thế giới. Nhưng với ông, tiếng hát của Roger trong buổi chiều ấy, nơi góc phố ấy là duy nhất, không ai khác có thể thay thế. Roger đã mất. Không lâu sau đó.
Khi ông save cụm từ Stand by me sau cùng và tắt máy, ngày đã rạng. Chuông nhà thờ bạt đi trong gió.
***
Bước qua bên kia đường, ông đứng vào đúng nơi ông nghĩ người kia đã đứng trong đêm. Kỳ lạ thay, ông nghe thấy hơi ấm dưới lòng bàn chân mình, như thể ta ngồi vào chỗ của một người nào đó vừa rời đi vậy. Ông thử dịch sang phải, dịch sang trái, lùi về phía sau, bước lên phía trước. Không nơi nào có cái hơi ấm lạ lùng đó. Ông khẽ đặt bước vào nơi ấy thêm một lần nữa, lại nhận ra hơi ấm từ ai đó, từ nơi nào đó.
Hoang mang, ông tạt vào quán cà phê nhỏ bên đường, nơi những người già thường ngồi nhâm nhi một ly cà phê cho các buổi sáng dài dặc của mình. Tránh những gặp gỡ có thể xảy ra, ông bước nhanh vào góc phòng, nơi có khung cửa thấp nhìn ra một gốc dẻ xum xuê, đã lác đác lá vàng trên nền đá lát đường.
Tựa đầu vào thành ghế, khoanh tay trước ngực, mắt khép lại, ông buông mình, cố thoát ra khỏi mớ bòng bong của những nghi hoặc, đoán định, nhớ tiếc. Nhưng chút hơi ấm còn vương lại dưới lòng chân khiến ông bối rối, bất an. Không cưỡng lại được ý muốn thử đặt chân trần trên đất, ông nhìn quanh rồi cúi xuống, nhẹ nhàng cởi giày, bỏ luôn đôi vớ vào đó, đẩy giày vào gầm bàn, khe khẽ đặt chân trên nền gạch lát màu nâu. Thoạt tiên, ông cảm thấy lạnh nhưng chỉ vài giây sau, hơi ấm đã trở lại. Ông vừa mang lại giày vớ vừa nghĩ, dù sao thì ta cũng vừa xác tín một sự thật. Nhưng hai từ sự thật vừa bật ra trong óc lại khiến ông giật mình. Sự thật nào. Có người nào đó hay không, người đó là ai, đứng đó để làm gì. Tại sao mình bị ám ảnh bởi người ấy, có mối liên hệ nào giữa người ấy với Roger và bài Stand by me… Và cái hơi ấm còn lưu giữ trên nền đất, trong bàn chân… Mọi thứ có cái gì đó lệch lạc, chông chênh, mơ hồ, không điểm tựa. Có lẽ đó chỉ là ảo giác, là kết quả của trí tưởng tượng đã rã rượi của ông già ngoài thất thập. Hay là dấu hiệu của một đổi thay… Mặc kệ, dù gì thì tối nay ta cũng sẽ bất thần mở tung cửa sổ… Mệt mỏi, ông thiếp đi bên tách cà phê đã nguội. Khi choàng dậy, ông thấy người bồi bàn cúi xuống bên mình, dạ thưa, tôi có thể giúp gì cho ông. Nhìn sự lễ độ quá mức cần thiết của anh ta, ông đoán, có lẽ anh ta cho rằng mình là kẻ có vấn đề về tinh thần. Ông ngồi thẳng người lên, đưa tay xốc lại áo vét, mỉm cười rồi nói to, tôi xin lỗi, xin lỗi rất nhiều. Tôi hoàn toàn ổn, chỉ vì âm nhạc nơi đây êm đềm như dỗ người ta vào giấc ngủ vậy. Nhưng có vẻ như ông không thuyết phục được anh ta. Ông đọc thấy điều đó trong ánh nhìn ái ngại khi ông rời quán.
Vậy mà đã xế chiều. Ông ghé vào cửa hàng, đi loanh quanh khá lâu chỉ để mua vài thứ lặt vặt, bánh mì, trứng, sữa rồi về nhà. Dù sao cũng đã “thanh toán” được hai phần ba số thời gian chờ đợi.
Giữa lúc ông xuống bếp, sửa soạn cho bữa ăn thì chuông điện thoại reo. Người em rể báo tin sẽ ghé nhà ông chiều nay. Anh ta đến dự tang lễ mẹ một người bạn. Tang lễ cử hành sớm nên phải ngủ qua đêm ở nhà ông. Rất xin lỗi vì sự đường đột.
Em rể của ông là một người chân thật, giàu tình cảm, đặc biệt yêu quý ông - người từng ủng hộ nồng nhiệt cho cuộc hôn nhân giữa hắn và em gái mình. Trên chuyến vượt biển, hắn lạc mất vợ con tại một hòn đảo, trong đêm tối hãi hùng, náo loạn. Đến Mỹ một mình, ngơ ngác, vơ vẩn, hắn chẳng làm được việc gì ra hồn. Em gái ông thấy vậy, thương xót mà gắn bó. Họ có một đứa con gái. Khi con bé đầy năm thì hắn được tin vợ con đang ở Stockholm. Người vợ đã kết hôn với một người bản xứ, có thêm cậu con trai, cũng vừa lên một. Đứa con chung của họ đã là một trang thiếu niên tuấn tú, yêu thích hội họa. Trong cặp của cậu có hàng chục bức tranh vẽ những con tàu lớn, cờ hoa rực rỡ, đèn đuốc sáng choang như những tòa lâu đài trong chuyện cổ tích. Một trong những bức tranh đó được người mẹ lồng khung treo nơi phòng khách. Đó là bức vẽ con tàu bên mạn sườn có khắc dòng chữ Harry Martinson và trên cột buồm, phấp phới lá cờ màu lam với hình chữ thập màu vàng của quốc gia này. Bên hông con tàu treo một chiếc thuyền cứu hộ. Không hiểu bằng cách nào, ký ức của một đứa trẻ lại có thể lưu giữ sự cứu giúp kỳ lạ ngày hôm ấy. Mãi rất lâu sau họ mới biết Harry Martinson là một nhà thơ lớn của đất nước mà họ cư ngụ… Hắn cầm chặt bức thư trong tay, ngoảnh nhìn ông, mắt đỏ hoe, sưng mọng, anh ơi, có chết em cũng không sao hiểu nổi cái cuộc đời khốn khổ này.
Vừa bước đến cửa, hắn đã nói liên hồi, em xin lỗi. Mọi việc đột ngột quá. Nếu mai đi từ chỗ em thì không làm sao kịp giờ. Vợ em gửi áo len và khăn quàng cho anh đây. Cô ấy cạy cục đan mất cả tháng đấy. Màu xám. Cô ấy bảo anh thích màu xám. Con bé cứ cười mẹ nó, hàng đầy ra đấy, sao lại phải hì hụi làm một việc vô nghĩa như vậy. Trẻ con bây giờ vô cảm, chúng chẳng biết gì ngoài chúng anh ạ. Mà em đói quá, chưa kịp ăn gì. Ông ấn hắn ngồi xuống ghế, chỉ mươi phút là có cái ăn thôi, rồi quày quả xuống bếp. Ông liếc nhìn đồng hồ, đã sáu giờ tối.
Bữa ăn của hai người đàn ông chỉ một loáng đã xong. Người em thở dài, anh đảm thật. Vợ em lúc nào cũng lo, sợ anh một mình ăn uống qua quýt. Ông cười, thì chẳng qua quýt là gì. Nhưng đến tuổi này, người ta chỉ ăn lấy lệ mà thôi. Ông lại liếc nhìn đồng hồ, cậu vào trong mà nghỉ, có đầy đủ chăn gối tinh tươm đấy. Người em giẫy lên, không, không cần đâu ạ. Em xem TV một chút rồi ngủ trên xô pha luôn, em là hạ khách mà. Anh cứ tự nhiên, coi như không có em.
Coi như không có em. Ông vừa bước vào phòng trong vừa lẩm bẩm. Không có cậu thì tôi đã có thể mở cái cửa sổ kia mà nhìn xuống đường. Không có cậu thì có khi tôi còn qua đường để biết người đó là ai. Không có cậu thì… Ông bước tới bước lui trong phòng, nói đi nói lại những lời vừa hiện ra trong đầu, quên mất người em rể đang còn ngồi ở bàn ăn. Hắn nhổm người lên, anh có hẹn với ai hả. Hay em chạy ra phố rồi khuya khuya hãy về. Vừa nói vừa lấy áo khoác, xỏ chân vào giày, hắn toan mở cửa. Ông túm lấy cánh tay người em rể, cậu ở lại, cậu cứ nghĩ linh tinh cái gì thế. Cậu nhiễm bệnh của em gái tôi rồi, lúc nào cũng lo lo lắng lắng những việc không đâu. Người em bật cười, thì em ở nhà. Em có thói quen xem TV cho đến lúc mắt díp lại. Thì cậu xem đi, ông nói rồi bước vào phòng. Đành bỏ qua đêm nay.
Không ngủ được, ông mở mạng đọc tin trong ngày. Giá dầu, khủng bố, biểu tình, thất ngiệp, đại nhạc hội, giải Nobel, nạn đói, dịch bệnh, tàu sân bay, vũ khí sinh học, sao Hỏa, biển Đông… Đúng lúc đọc bản tin về việc một chiếc máy bay vừa khởi hành đã lao mình xuống biển, mang theo gần hai trăm hành khách thì ông nghe thấy vang lên giọng hát của Roger ở phòng ngoài, Just as long as the people come and stand by me… stand by me, Ooo stand by me… Ông lao ra, giọng thất thanh, ai thế, cái gì thế, cái gì thế. Người em rể hốt hoảng, chìa chiếc remote về phía ông, em bật một kênh hú họa thôi mà, vừa bật lên thì thấy ông ấy đang hát, có việc gì sao anh. Trên màn hình, Roger cầm ghi ta, đứng hát trước một đám đông, vẻ mặt chân thành, cởi mở, chỉ có điều, phảng phất chút chi đó như nỗi ưu sầu trong ánh nhìn. Nỗi ưu sầu này không có trên gương mặt Roger ngày trước. Đã bình tĩnh lại, ông vừa thở vừa nói, không, không có chuyện gì. Cậu nghe tiếp đi. Tôi sẽ kể với cậu sau.
Nhưng rồi ông chỉ nói, cậu lo mà ngủ sớm để sáng mai kịp giờ. Ông biết, nếu nghe chuyện, thế nào hắn cũng càm ràm, anh cứ làm cho mọi việc rối lên. Em nghĩ người kia tình cờ đi qua, thấy anh mở cửa thì nhìn lên, thế thôi. Thảo nào sinh thời, mẹ bảo anh bị ám, từ tấm bé đã lơ lơ lửng lửng sao đó.
Khi rời nhà vào sáng sớm, hắn để lại một mảnh giấy nhỏ, gắn vào cánh cửa tủ lạnh: “Một lần nữa, em xin lỗi vì cuộc đột kích bất ngờ, ít nhiều gây xáo trộn cho cuộc sống của anh. Dù anh không nói, em biết có việc đó. Anh nhớ giữ sức khỏe, nhớ mặc áo len vợ em đan cho cô ấy vui. Nguyễn. P/S: Sao anh vấn vương với ông ca sĩ da đen đó quá vậy. Anh làm em hết cả hồn. Nhớ kể cho em vào lần gặp tới nhé”.
(Số sau đăng hết)