Mo mường Thái

Cẩm Vân 08/03/2015 09:08

Người Thái quan niệm con người có vắn có khoắn (hồn vía), có mương phạ mương đin (mường trời, mường đất), có phí (thần, nhân thần) chi phối cuộc sống. Từ khi lọt lòng đến lúc nhắm mắt xuôi tay, người Thái phải trải qua các nghi lễ vòng đời. Thầy mo - người thực hiện các nghi thức này đóng vai trò quan trọng, thổi hồn vào các buổi lễ. Dù vậy, đã có lúc chúng ta muốn bài trừ vì coi là tệ nạn, tuy nhiên bên cạnh việc tưởng là dị đoan thì lại là văn hóa dân tộc.

Trong bản trong mường người Thái có câu thành ngữ: Hướn mỏ bi mí phả, ná mỏ bo mí hộ, có nghĩa là nhà thầy mo không có vách, ruộng thầy mo không có rào. Câu này ý nói rằng công việc của thầy mo, của những người làm nghề mo là một cái nghiệp, mà đã theo nghiệp này thì không dễ dứt bỏ, hễ có người đến gọi là phải đi làm mo, họ không chủ động được thời gian, nên vách nhà, hàng rào ngăn trâu bò phá ruộng họ cũng không làm được.

Nghề mo ở các mường Thái tồn tại với hình thức cha truyền con nối, đời trước đã theo thì đời sau cũng phải theo và tuyệt đối không thể dứt bỏ. Nghề mo ở các mường Thái lưu truyền không phân biệt già trẻ gái trai, con dâu con rể, khi tổ mo đã nhập vào dù muốn hay không muốn cũng phải kế tục và tìm thầy để học cúng. Đa số tổ mo là bà mo thì nhập vào phụ nữ, ông mo thì nhập vào đàn ông. Nhiều trường hợp, họ có tổ mo là nữ thì cả họ đó mo là nữ, họ có tổ mo là đàn ông thì toàn đàn ông làm mo. Đặc biệt hơn còn có hệ mo con gái và hệ mo con dâu, họ nào con dâu làm mo thì chỉ nhập vào con dâu, hiếm khi nhập sang con gái và nếu mo là con gái trong nhà thì chỉ nhập vào con gái.

Có hai hình thức: mo một và mo bốn, tồn tại song song trong các mường của người Thái, mỗi hình thức mo có đặc trưng và cách cúng tế riêng. Mo một theo quan niệm của người Thái là dạng mo chỉ dùng lời lẽ để thuyết phục, cầu xin các vong hồn họ đang cúng tế, làm lễ. Mo một có thể làm được rất nhiều lễ, từ cúng cầu hồn cầu siêu, lễ hiến trâu, từ lễ nhỏ mang tính chất gia đình đến những lễ lớn như lễ của cả dòng họ hay của cả mường cả bản. Song, có những lễ chỉ mo bốn làm được. Ví dụ, trong lễ xin hồn xin vía, nếu xin không được, mo bốn có thể dùng vũ lực để lấy vía về, tất nhiên công việc chính của họ vẫn là cúng bái. Có một điểm khá đặc biệt là hai dạng mo này hoạt động biệt lập, không bao giờ kết hợp với nhau. Có trường hợp mo một không làm được thì hoãn, sau đó rước mo bốn về làm. Ngược lại, những trường hợp mo bốn không làm được thì chuyển hệ mo, rồi mời mo một tiếp tục. Riêng đối với dòng mo bốn, ngoài hình thức cha truyền con nối, những người mới có khí tín, có bản lĩnh muốn làm mo thì phải làm lễ xin giấy phép với nhà trời, nếu được nhà trời chấp nhận thì mới được làm.

Khi một người được chọn làm mo thì phải tìm thầy học là các thầy mo đang hành nghề. Thầy mo được chọn không được từ chối và phải dạy ngay, bởi nếu không có người nối nghiệp, họ sẽ không thịnh. Thời gian học làm mo từ 3 tháng đến 2 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người học phải theo học ba thầy. Thầy thứ nhất sẽ dạy các bài cúng chung chung thông thường như cúng ốm đau, cúng vòng đời, cúng trong gia đình… Thầy thứ hai dạy những bài cúng cho cả họ, cả làng. Thầy thứ ba không dạy cúng mà dạy cách bảo vệ bản thân để không cho những mo đố kỵ hại mình. Sau khi học nhuần nhuyễn các bài cúng lớn cúng nhỏ và cách thức bảo vệ bản thân, mo mới chọn ngày rộng tháng dài, làm lễ xin phép hay ra mắt nhà trời, được nhà trời chấp nhận mới bắt đầu hành nghề. Trong đời sống tâm linh của người Thái, hiện tượng nhập vong với thầy mo là đương nhiên. Bởi theo quan niệm, qua việc nhập vong, thầy mo mới có thể đại diện cho các đấng siêu nhiên phán bảo việc lành hay giữ cho gia chủ. Có thời kỳ, hiện tượng nhập vong bị coi là mê tín dị đoan, nhiều thầy mo bị cấm hành nghề, từ đấy số lượng mo trong các bản làng ít dần. Hiện nay, nhiều mường của người Thái ở huyện Quế Phong, Nghệ An đã phục dựng lễ hội Xăng Khan và gọi đó là lễ hội của bản mường. Lễ hội này thực chất là lễ hội của các thầy mo để nâng cao tay nghề theo dạng cấp sắc.

Gạt đi những hủ tục còn ít nhiều rơi rớt, phần tốt đẹp của nét văn hóa này chính là sự cố kết cộng đồng, những buổi tế lễ là nơi mọi người gặp nhau, chuyện trò, thắt chặt tình anh em, xóm làng. Đất sống của giá trị tinh thần ấy nằm trong nếp sống, nếp nghĩ của chính những người con mỗi bản Thái.

Cẩm Vân