Đình - tinh hoa làng Việt
Tinh hoa của văn hóa Việt Nam được lưu giữ nhiều nhất ở làng quê, tinh hoa của làng quê lại tập trung ở đình làng. Bởi ngôi đình tạo ra một không gian văn hóa, phương thức sinh hoạt cộng đồng. Từ đình làng, có thể thấy một phần đời sống tinh thần của người Việt.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Bình (Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm), ban đầu, đình là nơi nghỉ chân của người đi đường, theo thời gian, chức năng của đình dần biến đổi, trở thành công trình kiến trúc công cộng của làng xã. Đình được coi như một thiết chế hành chính, một nhà hát... là giai đoạn sau này, còn trước đó cũng không thấy các văn bia nói về việc thờ tự ở đình. Cùng với công năng, kiến trúc của đình cũng có nhiều biến đổi. Từ chỉ một tòa nhà phục vụ tế lễ xuân thu nhị kỳ cúng mừng năm mới, cúng được mùa, còn lại làm nơi hành chính hoặc diễn xướng, về sau, nhiều thành phần kiến trúc của đình phát triển, có thể ở phía trước hoặc phía sau tòa nhà ban đầu, tùy theo nhu cầu sử dụng của làng xã như đưa các vị thần vào thờ phụng, hoặc để đồ cúng tế, đồ chung của làng. Không loại trừ hiện tượng làng này ganh đua với làng khác, khiến việc mở rộng đình trở nên phổ biến, ví dụ ở xứ Đoài (Hà Nội), các ngôi đình xây thêm hầu hết giống nhau, trong cùng một giai đoạn.
![]() | |
Đình Chu Quyến, Ba Vì, Hà Nội | Nguồn: ITN |
Ngoài vai trò là cái nôi của nghệ thuật diễn xướng dân gian, “nhà hát nhân dân”, đình làng còn lưu giữ các tác phẩm điêu khắc dân gian, thể hiện và ca ngợi những điều tốt đẹp của cộng đồng. Theo nhà nghiên cứu Trần Hậu Yên Thế, “với kết cấu mái phủ thấp, đình làng Việt rất tối, những bản vẽ dù tài hoa đến đâu cũng là khối phẳng, không thể nhận ánh sáng được. Nhưng ánh sáng yếu, vờn tỉa, le lói lại giúp những mảng chạm khắc nổi lên rất đẹp. Đó là tinh thần của người Việt, thấu hiểu yếu tố bản địa để tạo nên sắc thái, hồn cốt trong cách thức trình bày, trang trí kiến trúc”.
Linh vật rất quan trọng trong trang trí kiến trúc đình làng Việt, phổ biến là rồng, nghê và tiên, đặc biệt là mô típ long nghê khánh hội. Ngoài ra, có thể thấy chạm khắc cảnh kéo đuôi nghê ở làng Vị Hạ, Hà Nam, hay cảnh trộm lục lạc của nghê ở các đình làng ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, thuộc trấn sơn nam Thăng Long. Bên cạnh đó còn có các mảng chạm khắc về con người, thường tập trung vào gian chính giữa, với những đề tài về sinh hoạt xã hội, như cảnh chèo thuyền ở đình Phù Lưu (Từ Sơn, Bắc Ninh), đình Hoàng Xá (Ứng Hòa, Hà Nội); hay đình Phong Cốc (Quảng Yên, Quảng Ninh) mô tả thuyền phương Tây đến vùng đất này, có cả cảnh trên bến dưới thuyền... Hình tượng phụ nữ xuất hiện trên đình làng khá nhiều, được mô tả rất phóng khoáng, như cảnh tiên cưỡi rồng ở đình Thổ Hà, hay cô gái khỏa thân ngủ trên râu rồng ở đình Phù Lão (Lạng Giang, Bắc Giang)… Từng nghiên cứu về Phân loại trang trí kiến trúc đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Bình cho biết thêm: “Trong nghệ thuật tạo hình, hình tượng con người có bố cục theo chiều ngang của mảng chạm, theo hướng vào bên trong tâm của ngôi đình. Thủ pháp nghệ thuật diễn tả hình tượng con người có sử dụng không gian đồng hiện, giản lược về chi tiết, nhấn mạnh động tác, có góc nhìn của không gian 3 chiều. Nhờ đó, khối điêu khắc như bật ra khỏi không gian kiến trúc đình làng. Tuy nhiên, đến thời Nguyễn, khi Nho giáo hưng thịnh, không có thêm mảng chạm khắc về đề tài con người hay phụ nữ trong đình, nhưng những tác phẩm điêu khắc đã gắn với đình làng vẫn được bảo lưu và tồn tại đến ngày nay”.
Đình làng, nơi tập hợp văn bản Hán - Nôm, lễ hội, các diễn xướng, điêu khắc dân gian... có thể coi là một kho sử về văn hóa Việt. Tuy nhiên, nhiều ngôi đình đã bị lấn chiếm về không gian, khuôn viên, hoặc sau khi trùng tu bị mất một số mảng chạm khắc, trang trí. Do vậy, cần sớm có hướng bảo tồn để từ đình làng, các thế hệ sau có thể thấy được một phần đời sống tinh thần của người Việt.