Có trời (Phần 1)
Truyện ngắn của Trần Thanh Cảnh

10/12/2014 09:12

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân

Chuyện thằng Minh vác dao chém bố nó, mấy hôm nay ầm ĩ khắp cả làng Ngọc. Từ đầu làng là xóm Đình đến cuối làng là xóm Nam, chỗ nào mọi người cũng xôn xao bàn tán. Bởi, nói như cụ thượng trong làng, từ thời cổ đến giờ, chưa có một vụ nào như thế. Cũng vẫn cụ thượng nói nhà nó đến ngày mục mả.

Tại xóm ngõ Ba, nơi cư ngụ của gia đình thằng Minh, tình hình nghe chừng vẫn còn nóng sốt lắm. Quang “bản phủ”, bố thằng Minh, đã kịp thời được đưa đi bệnh viện. Còn thằng Minh, đã bị công an cho vào nhà muỗi. Nhưng dân tình trong xóm ngõ Ba vẫn hết sức bàng hoàng. Trên suốt dọc con đường đổ bê tông, uốn lượn ngoằn ngoèo như con rắn, dài mấy trăm mét, từ đầu ngõ là nơi tiếp giáp với đường trục chính trong làng, đến cuối ngõ, đâm thẳng ra cánh đồng, mọi người túm năm tụm ba, râm ran bàn tán. Mấy mụ đàn bà thì thào với nhau rằng, lão Quang bản phủ, lúc ấy mặt xanh như chàm đổ, chân tay thì be bét máu. Thế mà thằng Minh, con trai đầu của bản phủ, mặc dù đã được mấy tay đàn ông lực lưỡng trong xóm ghì chặt, vẫn lồng lên, mặt đỏ như gà chọi, hét chói tai: “Các ông bỏ tôi ra, để tôi hóa kiếp cho cái đồ mặt người dạ thú kia, cho hết tội hết nợ…”.

*

Quang “bản phủ”, vốn là chánh án ở tòa án nhân dân huyện. Nhưng hình dáng bên ngoài, giống y như nhân vật Bao Thanh Thiên bên Tàu trong bộ phim truyền hình nhiều tập chiếu trên đài. Tối hôm trước xem phim, sáng hôm sau đến tòa, từ bị can, đương sự đến nhân viên, thư ký tòa, giật mình thon thót, nhìn lên ghế chánh án, cứ như thấy ông Bao Chửng ngồi trên thật. Cũng tai to mặt lớn đen sì. Đã thế, trên trán cũng có một vết sẹo gần giống hình lưỡi liềm, do mảnh đạn M79 nổ gần xớt qua hồi đánh nhau ở Quảng Trị. Thế là Quang được gắn cái biệt danh bản phủ. Mà xem ra Quang cũng khoái cái biệt danh ấy. Đến đâu nói chuyện cũng xưng xưng bản phủ. Để bản phủ quyết cái này, để bản phủ quyết cái kia. Cán bộ công nhân viên các cơ quan ban ngành xung quanh thì thấy kể gọi Quang là bản phủ cũng đúng. Ngày nào Quang chả thăng đường xét xử. Dân làng Ngọc thì tuy trong bụng không ưa bản phủ tí nào, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra nể nang. Điều này có nguyên nhân rất sâu xa.

Làng Ngọc vốn là làng có truyền thống nền nếp cao trong vùng. Mọi việc ma chay, cưới xin, hội hè đình đám nhất nhất đều phải theo lệ xưa đã định. Hàng tháng hai kỳ sóc vọng, các cụ bô lão, áo the khăn xếp ra đình, thắp hương thành hoàng, thụ lộc, rồi bàn chuyện làng. Những cuộc họp ấy do cụ thượng trong làng chủ trì. Cụ thượng là vị bô lão cao tuổi nhất, còn minh mẫn, được các bô lão suy tôn. Nhưng không phải cứ cao tuổi nhất thì đương nhiên là cụ thượng, là mặc áo gấm đỏ ra đình và ngồi chiếu trên đâu nhé. Cũng có những điều kiện khác phải tuân thủ như không phải là dân ngụ cư, không phải là con nhà mõ. Chuyện lệ làng thì rắc rối linh tinh lắm. Quang là người theo tân học, luôn đả phá những cái gọi là hủ tục như vậy. Nhưng đấy cũng chưa phải là điều để dân làng Ngọc ghét Quang. Cái vấn đề để dân làng ngấm ngầm ghét Quang “bản phủ”, nó nằm ở mục có tính truyền thống quê hương.

Chả là, dân làng Ngọc có truyền thống cờ bạc lâu đời. Trong vùng còn lưu truyền câu ca: Đi qua làng Ngọc chớ đánh bạc/ Mất quần mất áo cấm kêu ai… Chuyện dân các làng khác, đến làng Ngọc đánh bạc, thua sạch đến độ phải lột hết cả quần áo gán nợ, trần trùng trục chạy về, xảy ra nhiều rồi. Nhưng dân làng đi chơi các nơi cũng bị lột không ít. Nói đâu xa, ngay cụ Đám Quảng, là ông nội của Quang bản phủ, hồi còn trẻ, đã lừa vợ con một vố bằng cách xúc hết bồ thóc đem bán, rồi độn trấu vào, phủ ít thóc thật lên trên. Cụ ôm bọc tiền, bơi sang bên Lãng đánh bạc. Đến canh ba thì thua nhẵn túi. Cụ bơi về, mò vào miếu bà chúa giếng đầu làng, vơ sạch tiền lẻ khách thập phương cúng trên ban, ôm luôn bộ đồ thờ, bơi sang. Cởi cả quần áo dài làm một “tiếng” nữa, nào ngờ vẫn thua. Thế là cụ chỉ còn độc cái khố chéo trên người, bơi về. Cụ nghĩ cay quá, ra đình làng sáng tinh mơ, thúc trống ngũ liên ầm ầm, rồi lăn đùng ra sân đình, hô: “Cướp, cướp”. Đến đời con là ông Hương Lãm, thì tuyệt nhiên lại không cờ bạc rượu chè gì. Ông làm hương sư trong làng nên người làng mới gọi là ông hương. Ông lấy vợ, sinh được hai trai hai gái. Trai đầu là Quang bản phủ, trai nữa thứ ba, tên là Bính, làm mãi trong Sài Gòn. Hai gái lấy chồng xa nhưng có vẻ cũng mát mặt, thấy vợ chồng con cái, xe pháo về thăm bố luôn.

Quang bản phủ học xong cấp ba thì đi bộ đội chống Mỹ năm bảy hai. Sau năm bảy nhăm, Quang đi học một lớp bồi dưỡng pháp lý rồi chuyển ngành về tòa án. Cho đến lúc ấy, Quang cũng chả biết cờ bạc là gì. Ngày xuân, xóm làng rộn rã tiếng lắc của bát đĩa, tiếng hô: “Bán chẵn, bán lẻ”, “Kết xe điều”, “Ù thông tôm”, Quang chả hiểu gì. Ở vùng Kinh Bắc, vẫn có câu ca dao:

 Tháng giêng là tháng ăn chơi
 Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.

Suốt ba tháng mùa xuân, cả một miền quê cứ la đà lễ hội, đình đám, rượu chè, cờ bạc. Làng nào cũng mở hội, cũng tế thành hoàng, cũng rước xách. Rồi thì hát quan họ, đón khách thập phương về đánh chén tưng bừng. Các sới chọi gà mở ra cùng với sới vật. Quan họ áo xanh áo đỏ, lả lơi nón thúng quai thao à ơi bên ao đình. Hội tổ tôm điếm của các cụ trên, đánh hầu thánh ở cửa đình, chưa hát hết một bài, thì nhiều tay đàn ông đã tụ tập nhau lập sới bạc tại các nhà trong ngõ xóm. Già thì tổ tôm. Trẻ hơn thì xóc đĩa. Trẻ em, phụ nữ thì tam cúc ăn tiền. Cả làng, cứ mê man trong men say của máu cờ bạc “được ham, thua gỡ”. Hết mùa xuân, tàn hội, thế nào cũng có vài nhà vợ chồng con cái dắt díu nhau đi mất tích. Không hiếm những trường hợp phải bán vợ đợ con, mà các cụ trong làng vẫn truyền đến bây giờ.

Đến thời mới, chính phủ cấm tiệt cờ bạc. Đã cho khối tay cờ bạc chuyên nghiệp đi tù, đi lao động cải tạo. Thế nhưng không hiểu ra làm sao mà dân làng Ngọc vẫn không chừa. Vẫn cứ dấm dúi cờ bạc. Cả làng, từ già đến trẻ, hầu như ai cũng thuộc câu cờ bạc là bác thằng bần/ Cửa nhà bán hết cho chân vào cùm. Thế nhưng già trẻ lớn bé trong làng, chả ai bỏ. Mới đầu là vui một tí. Rồi vui chơi có thưởng. Rồi thành sát phạt lúc nào không biết.

Quang làm ở tòa, suốt ngày chạm mặt dân làng bị lôi xuống xử vì tội cờ bạc. Dân làng Ngọc, vốn có cả máu thương nhân, rất thính nhạy. Liền đến nhà Quang trong xóm ngõ Ba nhờ vả, chạy chọt.

*

Quang đi bộ đội về, lấy vợ là cô nhân viên hành chính ở công ty thương mại ngoài phố. Đẻ liền bốn thằng con trai. bản phủ vẫn hay huênh hoang: “Tao tứ tử trình làng. Bí thư huyện ủy tức nổ con mắt nhưng đ. kỷ luật được”. Chả là hồi Quang sinh con, chính sách sinh đẻ có kế hoạch của huyện khá nghiêm ngặt. Bí thư huyện ra chỉ thị nói rõ, mỗi mụ đàn bà chỉ được đẻ hai lần, còn thì phải xuống bệnh viện, bịt lại. Nhưng khổ nỗi, vợ chồng bản phủ đẻ hai lần thì sinh đôi cả hai, thế là thành bốn thằng quý tử. Sau vụ này, huyện phải ra chỉ thị nói lại cho rõ, mỗi gia đình chỉ được phép có hai con, chứ không phải là hai lần đẻ.

Vợ chồng thời bao cấp mà nuôi bốn thằng quý tử thì rất mệt. Vợ Quang xoay đủ các nghề làm thêm, nào là nấu rượu nuôi lợn, hàng xay hàng xáo, buôn bán lặt vặt thêm ngoài phố… để nuôi chồng nuôi con. Quang thì còn bận phấn đấu, chả giúp gì được thêm cho vợ. Đã thế, thỉnh thoảng vợ Quang còn phải lo tiền cho Quang đi học tại chức. Thế rồi cũng có cái bằng cử nhân luật như ai. Rồi Quang cũng được bổ nhiệm thẩm phán, chuyên xử những vụ ly hôn, cờ bạc, trộm vặt… Chuyện Quang bản phủ xử án có rất nhiều truyền thuyết. Không những người trong tòa biết, mà còn lan truyền ra cả ngoài xã hội. Lần bản phủ được giao xử vụ ly hôn đơn phương của một cô bên Đông Hồ. Cô này lúc ấy mới khoảng hai nhăm tuổi, lấy chồng ba năm, có một con gái. Không hiểu khúc mắc thế nào mà một mực đưa đơn xuống tòa xin ly hôn. Hòa giải mấy lần không thành, bản phủ phải thăng đường xử án. Tại tòa, cô vợ dứt khoát ly hôn, còn anh chồng thì vẫn không chịu. Giằng co nhau mãi, bản phủ phát mệt, cho giải lao mười năm phút. Cô vợ tranh thủ đến gần bàn chủ tọa trình bày, xin tòa giải quyết nhanh, chứ em chán phải nhìn mặt cái thằng chồng ất ơ này lắm rồi. Quang lấy bút viết vào lòng bàn tay mình dòng chữ: “Muốn xử nhanh, nộp năm triệu”, xòe tay cho cô ta xem, rồi nắm lại, lấy nước dãi xóa đi. Thế mà xong ngay. Kể từ hôm ấy, bên ngành tòa án phát minh ra thêm một kênh giao tiếp giữa chánh tòa và đương sự là viết vào tay, xòe ra cho xem rồi xóa đi. Xong. Nhưng mà có một số bị can, đương sự mắt cà là nhèm, nhìn mãi không ra, nên tòa cứ phải mở lòng bàn tay ra rồi lại nắm vào liên tục. Đến nỗi người ngoài nhìn vào, cứ tưởng là tòa giải lao, chơi trò Chi chi chành chành… ù à ù ập cho đỡ buồn ngủ. Nhưng cái việc ăn tiền của bị can, đương sự cũng khó mà đổ hết lỗi cho bản phủ được. Nhiều khi bản phủ thấy phát mệt với người làng, cứ đến nhà dúi tiền vào tay xin xử cho cái án nhẹ. Như con mẹ Đào thịt lợn ở xóm ngõ Ghen, con là Mý bị công an bắt ở sới xóc đĩa chân cầu, lọ mọ mang tiền đến xin bản phủ xử nương tay, vì thằng con mụ tái phạm nhiều lần, thế nào cũng phải tù. Nhìn cái xấp polyme xanh khá dày, bản phủ bảo, thôi để ta xử cho cái án treo. Thế mà mụ phủ phục ngay xuống nền nhà, lạy như tế sao: “Em lạy bác, bác có thương cháu thì cho cháu tù ngồi hay là tù nằm cũng được. Chứ bác bắt nó treo lên thì một ngày là nó chết. Em chỉ có mỗi nó là con trai…”. Các cụ ngày xưa đã chả từng dạy “vô phúc đáo tụng đình”. Dân làng Ngọc, hết lớp này đến lớp khác, hết lượt nọ đến lượt kia, bị chính quyền hỏi thăm vì tội cờ bạc. Thế là cái danh từ nhà muỗi là do cánh cờ bạc trong làng ám chỉ phòng tạm giam của công an. Chúng bảo muỗi ở đấy rất to, to như con ruồi mà đốt rất đau, hình như công an nuôi muỗi để trừng trị tội phạm hay sao ấy, nhiều như trấu. Chồng vào nhà muỗi thì vợ lại tất tả chạy đến nhà Quang. Con bị “nhập kho” thì mẹ lại nước mắt ngắn dài, đến trình bày với bản phủ. Tất nhiên là hình như cũng các cụ nhà ta đã dạy khá lâu rồi, “vào cửa quan, không có lối nói bằng nước dãi”. Dân làng Ngọc, vốn đi ăn cơm thiên hạ nhiều, nên rất hiểu lề lối. Có tiền, Quang chạy được chức chánh án ngon ơ. Từ ngày lên chức chánh, Quang càng tích cực thăng đường xử án. Kinh nghiệm mấy chục năm trong nghề nên bản phủ rất tinh tường. Những vụ nào dễ xơi, thì tự bản phủ thăng đường. Vụ nào khó nhằn, thì giao cho bọn đàn em. Cứ thế, năm nào tòa của bản phủ cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao. Án xử năm nào cũng vượt năm trước. Tiền kiếm được cũng nhiều và dễ như ăn ớt. Thế mà không hiểu sao, vợ bản phủ hưu non đã lâu, nhưng cứ lam lũ bán buôn nhì nhằng ngoài phố cả ngày, kiếm mấy đồng tiền còm.

*

Vợ chồng Quang được bốn thằng con trai, sàn sàn tuổi nhau. Lúc chúng còn bé, thằng nào thằng nấy hay ăn chóng lớn, ngoan như thỏ. Nhưng chúng càng lớn, vợ chồng bản phủ mới càng phát mệt. Ông nội chúng là hương sư trong làng, thuộc diện có chữ. Còn bố, cũng có bằng đại học hẳn hoi. Thế mà bốn thằng nghịch tử - giờ bản phủ không tự hào là tứ tử nữa, mà gọi là nghịch tử - dốt như bò. Thầy cô giáo thì bảo, cái loại này có bổ đầu ra nhét chữ vào cũng không được. Nhưng mà ăn chơi, đàn đúm, đua xe, game thì không con nhà nào bằng. Nhiều hôm, buổi trưa buổi tối, Quang về nhà, muốn nghỉ ngơi yên tĩnh một chút cũng không xong. Nhà lúc nào cũng ầm ầm như có động đất. Quang bản phủ rất điên vì không dạy nổi con, quay ra chì chiết vợ: “Cái loại đàn bà không biết dạy con. Các cụ ngày xưa nói cấm có sai: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Vợ Quang uất, nhưng không dám cãi. Bản phủ vẫn nổi tiếng trong làng là độc tài. Vợ kém mình chín tuổi, nên Quang coi như còn trẻ con. Lúc mới cưới về, thực hiện lời dạy của bố là ông Hương Lãm: “Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”. Quang bắt vợ phải học thuộc câu “tam tòng tứ đức”. Rồi cả cái chuyện sinh hoạt vợ chồng cũng vậy. Lúc nào có nhu cầu, Quang lại mò vào buồng vợ. Xong việc, lại ôm đít ra nằm một mình cho thảnh thơi nhà ngoài. Vợ bản phủ, lắm lúc uất ức chỉ dám than thở vụng với chị em: “Mình cứ như người hầu con ở nhà ấy. Nhiều đêm ngủ với chồng mà cứ tưởng mình đang bị hiếp dâm”. Nhưng thế mà lại đẻ hai lần sinh đôi, bốn thằng con trai. Nhưng tài đâu chẳng biết, khi cả bốn ông quý tử lớn lên thì không những bản phủ đau đầu, mà vợ cũng lộng óc. May có chú Bính là em ruột bản phủ về chơi thăm bố. Ngày xưa Bính học đại học hàng hải, đi tàu viễn dương chán, giờ đã lên bờ làm trong Sài Gòn. Lâu lâu mới về thăm nhà, thấy tình hình mấy thằng cháu như vậy, liền bảo ông anh: “Sao anh không cho chúng nó đi du học?” Quang bản phủ sáng mắt ra, ừ thế mà mình không nghĩ đến. Nhà có tiền, tống một thằng sang Anh, một thằng sang Pháp, một sang Mỹ. Còn một thằng sang tận Canada, thế là yên. Ngài chánh án xoa tay, thở phào nhẹ nhõm.

 Việc mấy thằng con tạm ổn. Chú ba nó nhiều mối quan hệ làm ăn với người Việt bên các nước ấy gửi gắm nên yên tâm. Chúng nó mà không học được, thì ra đi làm cũng không sao. Toàn những nước văn minh, coi trọng con người. Nhưng lo xong cho mấy thằng con, thì lại nảy ra việc bà vợ. Bao năm nay cúc cung tận tụy, thế mà một ngày đẹp giời, bà ấy bảo: “Bao năm qua tôi hầu hạ bố con ông đủ rồi. Nay tôi sống một mình. Ông thích thì quyền ông, xuống tòa làm thủ tục ly hôn. Không thích thì tôi với ông ly thân, về danh nghĩa vẫn còn, nhưng thân ai người ấy sống. Tôi không đòi hỏi gì ở ông cả.”

(Số sau đăng hết)