Quy định doanh nghiệp xã hội phù hợp với môi trường kinh doanh
Tại Hội nghị ĐBQH chuyên trách do UBTVQH tổ chức khi cho ý kiến về dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) vào chiều 9/9, các ĐBQH đồng tình với việc phải có doanh nghiệp xã hội. Bởi hiện nay có một số doanh nghiệp có nguồn kinh phí rất lớn, dồi dào muốn đầu tư cho xã hội để giải quyết việc làm, đầu tư cho những vùng còn khó khăn. Tuy nhiên, cần thiết phải có những chế tài để tránh việc một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách, cơ hội cho các doanh nghiệp xã hội vì mục đích lợi nhuận.
ĐBQH Trương Minh Hoàng (Cà Mau): Cần quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ kê khai, thông báo ngành, nghề kinh doanh với các cơ quan có thẩm quyền khi đăng ký kinh doanh để thực hiện nghĩa vụ của mình
Về doanh nghiệp xã hội, thực tiễn các nước trong khu vực và trên thế giới có nhiều doanh nghiệp dành toàn bộ hoạt động nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng, sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu vì xã hội đó mà không chia cho các thành viên, cổ đông như doanh nghiệp thông thường. Ở nước ta trong vài năm gần đây, doanh nghiệp xã hội cũng đã xuất hiện với số lượng ngày một tăng và đang phát triển nhanh chóng, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế. Tôi đồng tình với việc phải có doanh nghiệp xã hội. Bởi hiện nay có một số doanh nghiệp có nguồn kinh phí rất lớn, dồi dào muốn đầu tư cho xã hội để giải quyết việc làm, đầu tư cho những vùng còn khó khăn. Đồng nghĩa với quan điểm từ trước đến nay của chúng ta là giúp cho người nghèo cần câu chứ không phải xâu cá. Do vậy, chúng ta cần phải tạo điều kiện, cơ hội cho các doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, cần thiết phải có những chế tài để tránh việc một số doanh nghiệp lợi dụng chính sách, cơ hội cho các doanh nghiệp xã hội vì mục đích lợi nhuận.
Về quyền của doanh nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 7 nêu rõ, doanh nghiệp có quyền tự do kinh doanh các ngành, nghề mà Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác không cấm. Tôi đồng tình với vấn đề này, đồng thời điều này cũng đồng nghĩa với việc trong giấy đăng ký kinh doanh không ghi ngành, nghề kinh doanh. Quy định như vậy sẽ giảm đáng kể chi phí thực hiện thủ tục hành chính, nâng cao tính chủ động, linh hoạt cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, những nhà quản lý cũng bày tỏ băn khoăn khâu hậu kiểm sẽ khó khăn. Do vậy, cần quy định doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ kê khai, thông báo ngành, nghề kinh doanh với các cơ quan có thẩm quyền khi đăng ký kinh doanh hoặc khi bổ sung ngành, nghề kinh doanh để thực hiện nghĩa vụ của mình.
Mặt khác, từ những quy định mở như thế này, không loại trừ sẽ có những doanh nghiệp do năng lực hạn chế nên trong quá trình cạnh tranh họ cố gắng tập trung sản xuất làm một lần rồi nghỉ, với lợi nhuận là chính. Như vậy sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư chân chính, lành mạnh. Như vậy chính sách mở là cần thiết, nhưng cần đặt trong điều kiện kinh doanh của việt Nam, đặt trong môi trường kinh doanh thuận lợi và an toàn, lành mạnh, có như vậy mới bảo đảm được thu hút các nhà đầu tư, cũng như duy trì được hoạt động kinh doanh lành mạnh ở Việt Nam.
Về quy định “Cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn sáu tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong các trường hợp…” tại khoản 1 Điều 164, theo tôi bên cạnh tạo thuận lợi về quyền khiếu kiện, nếu quy định không khéo thì trong quá trình cạnh tranh có thể sẽ ảnh hưởng đến uy tín của các doanh nghiệp. Do vậy, cần thiết phải đưa chế tài vào trong Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) để nếu như các đối tượng khi thực hiện quyền khiếu kiện của mình làm phương hại đến doanh nghiệp mà vụ việc đó không rõ ràng thì có biện pháp xử lý.
![]() Nguồn: baodautu.vn |
ĐBQH Trần Du Lịch (TP Hồ Chí Minh): Cần nghiên cứu kỹ quy định doanh nghiệp xã hội trong luật phù hợp với môi trường kinh doanh trong nước
Tôi đề nghị không quy định doanh nghiệp xã hội trong Luật. Trên thế giới trào lưu doanh nghiệp xã hội rất nhiều, ở những nước phát triển có hai mô hình đã có nhiều năm là doanh nghiệp kinh doanh và doanh nghiệp phi lợi nhuận. Sau này xuất hiện nhiều ngành, nghề lĩnh vực hơn, các doanh nghiệp kinh doanh một số lĩnh vực mà xã hội cần và đóng góp cho xã hội. Loại hình này được gọi là doanh nghiệp xã hội và phần lớn đều được cơ quan thuế của các nước giám sát rất chặt chẽ. Với điều kiện hiện nay của nước ta, theo đại biểu, nên phát triển và khuyến khích loại hình doanh nghiệp này, nhưng khuyến khích bằng các chính sách cụ thể trong các Luật Thuế, Luật Đầu tư. Đây là vấn đề nghị cần nghiên cứu kỹ, chứ không phải cái gì thế giới làm thì ta cũng làm, mà cần đặt trong điều kiện, bối cảnh của ta có làm được hay không.
Tôi đồng tình với cách gọi doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thay cho doanh nghiệp nhà nước để áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước sở hữu 100% vốn. Tuy nhiên, trong phần chế định cụ thể, tôi đề nghị về mô hình, theo kinh nghiệm thế giới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước về tổ chức bao giờ cũng tổ chức như một công ty cổ phần mà phòng họp cổ đông là Chính phủ. Có nghĩa là cứ cái gì mà công ty cổ phần là quyền của đại hội cổ đông thì cái đó là quyền quyết định của Chính phủ. Còn cái gì mà công ty cổ phần là quyền của hội đồng quản trị thì doanh nghiệp này là quyền của hội đồng thành viên và hội đồng quản trị. Đồng thời, chức danh Tổng giám đốc hoặc Giám đốc có thể thuê, tránh tình trạng hiện nay Chính phủ vừa bổ nhiệm Chủ tịch, Tổng giám đốc.
ĐBQH Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hóa): Tiền lương, tiền thưởng được xác định như thế nào và có gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh hay không?
Trong chương IV về doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Trong chương này tôi đọc thực chất trước đây là chương doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta viết như thế này tôi cho là ổn. Ổn ở chỗ doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn, để không có chuyện trong Luật Doanh nghiệp đẻ ra thêm một chương là chương doanh nghiệp nhà nước. Cách thiết kế này là chuẩn, tuy nhiên tôi cho rằng, bản chất của chương này quy định quan hệ đại diện chủ sở hữu nhà nước theo ủy quyền trực tiếp để thực hiện các quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Ở đây yêu cầu đặt ra phải quy định rõ ràng, chặt chẽ về cơ chế quản trị nội bộ. Trong quản trị nội bộ doanh nghiệp, vấn đề quan trọng nhất là tiền lương, thù lao, tiền thưởng và các lợi ích khác.
Thứ hai là tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn theo 2 mô hình. Mô hình thứ nhất là chủ tịch công ty, giám đốc, tổng giám đốc và kiểm sát viên. Mô hình thứ hai là hội đồng thành viên, giám đốc, tổng giám đốc và kiểm sát viên. Như vậy có một cái đặc thù hơn. Cán bộ quản lý của Luật Doanh nghiệp này là cán bộ công chức do Nhà nước bổ nhiệm quản lý phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cho nên ở đây chúng tôi thấy quan trọng nhất của chương này là phải làm rõ cơ chế tiền lương của cán bộ quản lý doanh nghiệp do nhà nước bổ nhiệm. Dự thảo luật còn quy định rất đơn giản về tiền lương, tiền thưởng và các chi khác như tại khoản 3 Điều 91 chỉ ghi Hội đồng thành viên quyết định tiền thương, thù lao, tiền thưởng và quyền lợi khác đối với các chức danh do hội đồng thành viên, chủ tịch công ty bổ nhiệm; khoản 3 Điều 98 chỉ ghi lương, thưởng và quyền lợi chủ tịch công ty do cơ quan đại diện chủ sở hữu quyết định và được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp. Như vậy ở đây không rõ tiền lương, tiền thưởng được xác định như thế nào và có gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh hay không?
Vấn đề quan tâm ở đây trong Luật Doanh nghiệp là Bộ luật Lao động quy định từ 1/5/2013, các doanh nghiệp nhà nước phải xây dựng thang lương cho công nhân, bảng lương cho cán bộ quản lý và định mức lao động quy định tại Điều 93,94 nhưng rất đáng tiếc đến nay Bộ luật Lao động đã có hiệu lực thi hành rất lâu nhưng chưa có Nghị định quy định về thang, bảng lương, phương pháp cách thức xây dựng thang, bảng lương cho các doanh nghiệp. Do đó, xác định bảo hiểm xã hội rất vướng. Trong chương này chúng ta phải quy định rõ các nguyên tắc để công ty xây dựng thang, bảng lương. Tôi đề nghị phải rà soát lại để bổ sung dự thảo luật này để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, phù hợp giữa Bộ luật Lao động và quy định của Chính phủ.
ĐBQH Dương Hoàng Hương (Phú Thọ): Điều 14 cần phân tích rõ những điểm thuận lợi, không thuận lợi so với quy định hiện hành
Liên quan đến người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp tại Điều 14, dự thảo đã đưa ra và có nhiều ý kiến khác nhau. Trong đó có những ý kiến đề nghị giữ lại quy định theo luật hiện hành là chỉ có 1 người đại diện theo pháp luật và đối với trường hợp ủy quyền chúng ta sử dụng người đại diện ủy quyền. Tuy nhiên có ý kiến phân tích về vai trò, ý nghĩa, tác dụng quy định mới có nhiều người đại diện theo pháp luật. Hiện nay dự thảo thể hiện theo hướng công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có thể có nhiều hơn 1 người đại diện theo pháp luật. Theo tôi, nếu chúng ta xác định thay đổi về vấn đề này phải giải trình rõ ràng tính ưu việt so với quy định cũ.
Hiện nay Bộ luật Dân sự vẫn đang xác định mỗi pháp nhân chỉ có 1 người đại diện theo pháp luật, trường hợp khi người đại diện đi vắng có lý do thì có thể sử dụng đại diện ủy quyền. Nếu có nhiều người đại diện theo pháp luật trong công ty trách nhiệm hữu và công ty cổ phần có điểm hay ở chỗ phù hợp với quy định pháp luật 1 số nước và có thuận lợi tại một số giao dịch, nhất là giao dịch với đối tác nước ngoài. Song nếu có nhiều người đại diện theo pháp luật thì liệu có dẫn đến tình trạng phức tạp hoặc rủi ro trong giao dịch giữa các đối tác hay không. Có thể có trường hợp doanh nghiệp có chủ ý thiết lập tình huống mang tính chất vô hiệu trong hợp đồng để làm lợi cho mình trong quá trình giao dịch sau này mà đối tác không thể biết được.
Điều14 quy định người đại diện theo pháp luật có thể nhiều hơn 1 người nhưng người đại diện theo mức độ nào hay chỉ đại diện theo phạm vi lĩnh vực mà người đó quản lý. Vấn đề này chưa được làm rõ. Nó có thể xảy ra 2 tình huống. Nếu mỗi người đại diện theo pháp luật sẽ đại diện toàn quyền thì khó xác định người nào quyền cao hơn người nào trong các giao dịch và nguy cơ rủi ro trong các quan hệ với đối tác rất cao. Nếu giả sử đặt tình huống mỗi người đại diện trong phạm vi mà chức danh mình quản lý thì dẫn đến khó khăn nếu ký hợp đồng với đối tác thì ai sẽ đứng ra ký kết nếu giao dịch đó liên quan đến nhiều nội dung. Tôi đề nghị trong Điều 14 cần phân tích rõ những điểm thuận lợi, không thuận lợi so với quy định hiện hành.