7 dịch chuyển chiến lược ở châu Á – Thái Bình Dương
Mohan Malik, Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á - Thái Bình Dương ở Honolulu, Hawaii, Mỹ, đã có bài phân tích trên tạp chí The Diplomat, trong đó nhận định đây là thập kỷ của sự chuyển giao quyền lực ở châu Á. Đồng thời, tác giả đã đưa ra dự đoán về 7 thay đổi chiến lược đáng chú ý ở châu Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.
![]() Biếm họa của Paresh - Caglecartoons |
Tuy nhiên, động thái này cho thấy Bắc Kinh đang đẩy mạnh tuyên bố chủ quyền trên các vùng ngoại vi thông qua các hành động o ép, hăm dọa hoặc triển khai các hoạt động bán quân sự nhằm đe dọa bằng vũ lực. Sự hiện diện của giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc trên vùng biển Việt Nam còn là một tuyên bố chính trị, nhằm thể hiện quyết tâm cũng như khả năng trong việc kiểm soát và khai thác trên Biển Đông, trong khi chối bỏ quyền này của các nước trong khu vực. Thông điệp này có ý nghĩa rất lớn đối với Washington cũng như với Tokyo, Hà Nội, Manila, Jarkata hay New Delhi. Trong khi tiến hành khoan thăm dò trên vùng biển của Việt Nam, giàn khoan khổng lồ trị giá 1 tỷ USD này của Trung Quốc cũng đồng thời khoan một lỗ sâu hoắm vào chiến lược xoay trục của Mỹ, làm xói mòn uy tín của Washington trong cam kết bảo lãnh cho sự ổn định và an ninh của khu vực.
Gần đây, các phương tiện truyền thông rộ lên thông tin về liên minh chiến lược mới giữa Nga – Trung Quốc manh nha thống trị lục địa Á - Âu, báo hiệu cơn ác mộng đối với Washington về một thế cân bằng mới theo quan điểm Vùng đất trung tâm của Halford Mackinder. Một số ý kiến đã tiên đoán rằng, sẽ hình thành nên trục mới gồm Bắc Kinh - Moscow - Tehran, dựa trên các trụ cột năng lượng, giao thương và an ninh ở lục địa Á - Âu. Mặc dù việc Nga đẩy mạnh chiến lược hướng Đông chủ yếu do sự đối đầu căng thẳng với phương Tây trong cuộc khủng hoảng Ukraine, song việc các nước đang nỗ lực đảo ngược thế cân bằng quyền lực trong khu vực vẫn đặt ra thách thức ngày càng tăng đối với Mỹ.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang đứng trước ngưỡng cửa của sự thay đổi, bao gồm những điều đã biết hoặc chưa biết, tiềm ẩn nhiều thách thức và cả sự bất trắc. Song, 7 dịch chuyển chiến lược lớn sau đây sẽ quyết định hành vi chiến lược của Trung Quốc và bối cảnh địa chính trị châu Á trong thời gian tới.
1. Cuộc so găng giữa các cường quốc mới nổi và các cường quốc già cỗi
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Trung Quốc đã chuyển từ chính sách ẩn mình chờ thời sang nắm bắt cơ hội, vươn lên dẫn đầu và phô trương sức mạnh nhằm định hình lựa chọn của các nước theo hướng có lợi cho mình. Trật tự quốc tế trong thời hậu chiến phụ thuộc vào ba yếu tố: các liên minh của Mỹ, vị thế thống trị trên biển của Mỹ mà chưa có nước nào địch nổi và cán cân quyền lực tương đối ổn định. Tất cả những yếu tố trên giờ đây đang bị thách thức bởi mục tiêu và sức mạnh ngày càng tăng của Bắc Kinh.
Trung Quốc coi các liên minh của Mỹ là tàn dư của Chiến tranh Lạnh, cần loại bỏ để khôi phục cái mà nước này gọi là sự cân bằng quyền lực tự nhiên trong khu vực, tức là một trật tự thứ bậc mà trong đó Trung Quốc chiếm vị trí trung tâm của châu Á như thời cận đại. Chiến lược của Trung Quốc ở châu Á nhằm làm xói mòn uy tín của Mỹ trong vai trò là người bảo lãnh an ninh khu vực. Bất kể các tuyên bố ngoại giao của Bắc Kinh, quan hệ cường quốc kiểu mới giữa Trung Quốc và Mỹ thực chất nhằm tìm kiếm sự công nhận của Washington đối với quyền bá chủ của Bắc Kinh ở châu Á, trong một thỏa thuận địa chính trị nhằm hạn chế vai trò và sự hiện diện của Mỹ ở khu vực; đồng thời gạt các đồng minh truyền thống của Mỹ, đặc biệt là Nhật Bản, ra bên lề. Nỗ lực này của Bắc Kinh sẽ tiếp diễn trong nhiều thập kỷ tới. Trong mắt của Trung Quốc, Mỹ đang ngày càng suy yếu và khó cưỡng lại vòng xoáy suy thoái, trong khi sức mạnh của cường quốc châu Á này ngày một tăng lên. Đối với Washington, thách thức lớn nhất là làm thế nào để kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trong trật tự mà Mỹ dẫn đầu, nhưng không làm suy giảm vai trò và sự hiện diện của Mỹ. Vì vậy, thời gian qua các quan chức Mỹ đã thực hiện nhiều chuyến thăm đến khu vực châu Á nhằm tái khẳng định với các nước đồng minh và đối tác về cam kết an ninh của Mỹ ở châu lục này, cũng như khẳng định quyết tâm của Washington trong nỗ lực tái cân bằng khu vực.
Đáng chú ý là sự trỗi dậy của Trung Quốc không diễn ra đơn độc. Nhật Bản cũng đang thay đổi, với việc chính quyền Shinzo Abe bãi bỏ các quy định hạn chế trong quyền tự vệ tập thể và các thỏa thuận mua bán vũ khí. Ấn Độ đang tái cân bằng cả về kinh tế và chiến lược ở châu Á - Thái Bình Dương bằng chính sách hướng Đông trong gần hai thập kỷ qua. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Narendra Modi, Ấn Độ được dự đoán là sẽ tiếp tục thực hiện chính sách này. Trong khi Trung Quốc không thể từ chối hợp tác kinh tế với Ấn Độ, sự hồi sinh của Ấn Độ sẽ giúp hình thành mỏ neo cân bằng quyền lực ở Nam Á và cản trở các nỗ lực của Trung Quốc trong việc thiết lập uy quyền. Các nước phát triển vừa và nhỏ như Australia, Hàn Quốc, Singapore, Indonesia, Philippines và Việt Nam cũng đang có những bước dịch chuyển nhằm tái cân bằng quyền lực, điển hình là việc thời gian qua một số nước đã tăng cường chi ngân sách để củng cố sức mạnh cho lực lượng hải quân, trong bối cảnh gia tăng căng thẳng trên Biển Đông.
Cuộc cạnh tranh quyền lực chủ yếu diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng trên biển và đất liền, cuộc cạnh tranh diễn ra giữa Trung Quốc với Nhật Bản và Ấn Độ. Các lực lượng Hải quân của Ấn Độ và Trung Quốc đang hiện diện ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương với tần suất ngày càng nhiều hơn. Quan ngại về vị thế của mình ở châu Á, nơi Trung Quốc chiếm lĩnh vị trí trung tâm, Nhật Bản và Ấn Độ sẽ tăng cường gắn kết quan hệ song phương, dưới sự lãnh đạo của hai nhà lãnh đạo Shinzo Abe và Narendra Modi. Điều này sẽ làm tăng thêm những cạnh tranh chiến lược giữa Bắc Kinh với Tokyo và New Delhi.
Gần giống với châu Âu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khu vực châu Á - Thái Bình Dương của đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự trỗi dậy và lớn mạnh của cường quốc mới và một số nước thụt lùi. Khi các cường quốc mới đang nổi lên ở châu Á, sẽ kéo theo sự cân bằng chiến lược mới và liên minh giữa các nước dịch chuyển theo.
2. Sự bất mãn về địa chính trị
Đối với các nước láng giềng nhỏ và yếu thế hơn Trung Quốc, đây sẽ là thập kỷ của sự chung sống đầy mạo hiểm. Bởi lẽ, Trung Quốc luôn tạo cảm giác bất an cho các nước này, với diện tích lãnh thổ lớn, bề dày lịch sử và sức mạnh; quan trọng hơn cả là những ký ức chưa phai nhạt về hội chứng vương quốc trung tâm của Trung Quốc. Trong quá khứ, chưa khi nào Trung Quốc chấp nhận chung sống hòa bình với những nước khác có sức mạnh ngang tầm hoặc thấp kém hơn. Thay vào đó, Trung Hoa cổ đại luôn đòi hỏi các nước khác phải kính trọng và phục tùng. Những gì đã thay đổi trong thời đại ngày nay có chăng chỉ là các lợi ích kinh tế thay thế cho tư tưởng thống trị của Bắc Kinh trong quá khứ.
Các quan hệ kinh tế ngày càng phát triển với Trung Quốc khiến các nước láng giềng châu Á trở nên bị lệ thuộc mà chưa tìm được cách để thoát ly. Trong khi không thể phủ nhận quyền lực và sự lớn mạnh của Trung Quốc, các nước láng giềng này cũng không chấp nhận việc bị mất dần quyền tự quyết trong hoạch định chính sách ngoại giao. Ngoại trừ một số ít nước, hầu hết các nước châu Á, kể cả CHDCND Triều Tiên, tỏ ra không mặn mà với việc chung sống trong một châu Á do Trung Quốc dẫn dắt và chi phối. Thay vào đó, các nước đang tìm cách duy trì các liên kết an ninh hiện có và theo đuổi chiến lược ngoại giao khôn khéo, cùng các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm giúp họ tự chủ hơn, trong khi không làm ảnh hưởng tới những lợi ích có được từ việc duy trì quan hệ với Bắc Kinh. Điển hình là Mỹ đang thực hiện chiến lược tái cân bằng, Ấn Độ đang hướng Đông, ASEAN đang hướng Tây, Australia với các chính sách hướng Bắc, còn Nhật Bản không ngừng đẩy mạnh hợp tác quân sự với Australia, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ.
Sự toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích cốt lõi của mọi quốc gia, bất kể lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu. Căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, trong đó có Ấn Độ và Nhật Bản về các tranh chấp chủ quyền trên đất liền và trên biển đều có ý nghĩa địa chính trị. Sự hung hăng của Trung Quốc trong việc thúc đẩy các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải đã thôi thúc các nước láng giềng xích lại gần nhau hơn và thiết lập những liên minh chưa từng tồn tại trước đó. Kiểm soát sự trỗi dậy của Trung Quốc và chấn chỉnh hành vi của nước này là thách thức ngoại giao lớn nhất đối với khu vực và thế giới trong những năm tới.
3. Trò chơi chính trị mới mà cũ
Sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra những lợi ích ở hải ngoại, thúc đẩy những tham vọng lớn về địa chính trị và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng cường quân sự. Các bên sẽ tìm kiếm nguồn tài nguyên phục vụ mục tiêu tăng trưởng công nghiệp, tìm kiếm thị trường mới để tiêu thụ hàng hóa và lập ra các căn cứ quân sự mới để bảo vệ các nguồn tài nguyên và thị trường mới này, giống như những gì mà các cường quốc công nghiệp của châu Âu từng thực hiện, dẫn tới sự thuộc địa hóa châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin trong các thế kỷ XVIII và XIX trước đây. Trung Quốc đang xoay trục về phía Tây, hướng đến châu Phi, Trung Đông, Nga, Tây Nam Á và Trung Á, nhằm tìm kiếm nguồn tài nguyên, thị trường và môi trường ngoại giao. Giống như trong quá khứ, cuộc cạnh tranh này về cơ bản là cuộc tìm kiếm các thể chế ôn hòa và thân cận, để làm nguồn cung tài nguyên và khả năng tiếp cận các hải cảng. Trò chơi chính trị thế giới này không thay đổi nhiều, mà chỉ có người chơi là thay đổi.
4. Thống trị thế giới là câu chuyện của quá khứ
Không một cường quốc đơn lẻ nào có thể thống trị thế giới trong tương lai, bất kể nước đó sở hữu bao nhiêu sức mạnh cứng và quyền lực mềm đi chăng nữa. Việc một nước mạnh tới cỡ nào thì cũng không quan trọng bằng việc nước đó sở hữu sức mạnh gì. Trung Quốc dường như tin rằng, nếu nước này đạt được sức mạnh tổng thể quốc gia thì mọi thứ sẽ đi vào trật tự và các nước khác sẽ tuân theo quỹ đạo của nước này. Tuy nhiên, việc chỉ có sức mạnh tổng thể quốc gia thôi sẽ không giúp Trung Quốc trở thành một siêu cường toàn cầu. Các cường quốc trở thành những siêu cường là nhờ sự ủng hộ của các nước vừa và nhỏ khác. Xét về số lượng đồng minh (với 58 nước) và đối tác tiềm năng (với 41 nước) trên toàn thế giới, Mỹ vẫn là siêu cường không có đối thủ. Sự ủng hộ của các cường quốc vừa và nhỏ là sự khác biệt lớn, quyết định tham vọng trở thành siêu cường thành hay bại.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc và Ai Cập là hai quốc gia bậc trung theo đuổi chính sách gió chiều nào xoay chiều ấy. Khi Trung Quốc và Ai Cập chuyển từ việc ủng hộ Liên Xô cũ sang ủng hộ Mỹ, hai nước này đã trở thành những nhân tố quan trọng trong cán cân quyền lực ở châu Á và Trung Đông. Cán cân lực lượng đã thay đổi theo hướng không có lợi cho Liên Xô cũ và phần còn lại là lịch sử. Tái hiện nước cờ địa chính trị này, Washington đang tìm cách lôi kéo các quốc gia đảo cánh mới như Ấn Độ, Indonesia để tạo thế đối trọng với Trung Quốc.
5. Thúc đẩy quyền lực trên đất liền cũng không kém phần quan trọng
Mặc dù các nước đang tập trung vào việc cạnh tranh trên biển, nhưng việc cạnh tranh quyền lực trên đất liền cũng không kém phần quan trọng. Chính các trung tâm kinh tế, các thể chế mới, hành lang giao thông, đường sắt cao tốc, đường cao tốc và hệ thống các đường ống đang thay đổi môi trường địa chính trị của lục địa Á - Âu. Giống như Anh và Nga trong quá khứ, Trung Quốc đang triển khai hệ thống phương tiện giao thông hiện đại như đường sắt cao tốc, đường cao tốc, đường ống dẫn dầu, nhằm vẽ lại bản đồ địa chính trị của lục địa Á - Âu. Như một phần trong chiến lược hướng Tây, Bắc Kinh đã đầu tư hàng trăm tỷ USD để thiết lập mạng lưới trên bộ nhằm liên kết Trung Quốc với các khu vực Trung Á, Tây Nam Á và Đông Nam Á. Các hành lang huyết mạch này sẽ vận chuyển nguyên liệu thô và nguồn năng lượng, đồng thời xuất khẩu các hàng hóa của Trung Quốc tới những khu vực trên, thậm chí còn xa hơn nữa. Tuy nhiên, lục địa Á - Âu chưa nhận được sự quan tâm thích đáng có lẽ bởi ba thế kỷ thống trị đại dương của người Mỹ gốc Anh dường như khiến các nhà hoạch định chính sách mắc phải hội chứng mù đất liền.
6. Công nghệ là đòn bẩy lớn
Công nghệ chính là nhân tố làm thay đổi cuộc chơi. Dù trong thời chiến hay thời bình, công nghệ định hình mối quan hệ giữa các quốc gia, quyết định thứ bậc trong quan hệ quốc tế. Rất ít nhà kinh tế dự đoán Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế, bởi họ đã không thể thấy trước được tác động của công nghệ trong tương lai. Cũng như không ai có thể đoán biết cách thức mà internet sẽ thay đổi mọi thứ vào năm 1990, sự phổ biến nhanh chóng của những công nghệ đột phá như in ấn 3D/4D, thành tựu của công nghệ sinh học, người máy và điện toán lượng tử sẽ là những nhân tố quyết định cuộc chơi. Những đột phá công nghệ trong tương lai chắc chắn sẽ quyết định ai là người chiến thắng và bại trận, đồng thời cũng đem lại nhiều cơ hội và thách thức mới.
Trong khi Trung Quốc và các nước khác cho rằng Mỹ đang suy yếu, cuộc cách mạng về khai thác đá phiến có thể giúp Mỹ hồi sinh và kéo dài sự thống trị đối với trật tự quốc tế, nhờ công nghệ phân tách bằng thủy lực. Nếu tận dụng triệt để, sự bùng nổ năng lượng tại Mỹ và Canada có thể thay đổi sự chuyển động quyền lực giữa các cường quốc và vực dậy các liên minh của Mỹ. Giống như một Trung Đông già cỗi đang hướng Đông để thúc đẩy quan hệ năng lượng với Trung Quốc và Ấn Độ, một Trung Đông mới (gồm Canada và Mỹ) có thể đang hướng Tây để bán dầu khí trong đá phiến cho Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, và các nước Đông Nam Á. Dầu khí trong đá phiến sẽ không chỉ tăng cường đòn bẩy ngoại giao của Mỹ, mà còn làm thị trường dầu mỏ thế giới đa dạng, giúp bình ổn giá dầu, đồng thời các nước tiêu thụ sẽ giảm bớt sự phụ thuộc quá mức vào một Trung Đông nhiều biến động, OPEC hay Nga.
7. Tương lai địa chính trị châu Á
Những xu hướng chiến lược nêu trên sẽ định hình tương lai địa chính trị châu Á, đặc biệt là tác động qua lại giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Sự bất cân bằng quyền lực giữa các cường quốc sẽ dẫn đến việc mỗi bên sẽ thiết lập các quan hệ đối tác mang tính linh hoạt, thức thời với những bên khác khi các lợi ích của họ có điểm chung, nhằm tận dụng sự ủng hộ của một bên để chống lại bên khác khi có xung đột quyền lợi, hay ngăn chặn hai bên khác hình thành liên minh chống lại mình.
Dĩ nhiên, Trung Quốc là mảnh ghép quan trọng nhất trong bức tranh địa chính trị này. Là quốc gia lớn nhất về diện tích lãnh thổ và hùng mạnh nhất về sức mạnh kinh tế và quân sự ở châu Á, chỉ khi nào Bắc Kinh dừng lại và chấp nhận việc duy trì nguyên trạng lãnh thổ trên đất liền cũng như trên biển, thì khi đó mới có thể hóa giải được các liên minh của Mỹ thời kỳ Chiến tranh Lạnh và giảm bớt lý do cho sự hiện diện của Mỹ tại khu vực. Tuy nhiên, sẽ khó có chuyện đó xảy ra, vì một chiến lược gia Trung Quốc từng nói. Từ bỏ yêu sách đối với các vùng đất bị mất vào tay nước khác… là điều khó tin và không thể xảy ra. Câu hỏi đặt ra cho Mỹ và các đồng minh là làm cách nào để duy trì cán cân quyền lực đủ mạnh, nhằm chặn đứng bất kỳ hành động hăm dọa và xâm lấn của một Trung Quốc đang đầy tự tin và quyết tâm thiết lập vị thế thống trị châu Á cũng như các vùng biển liền kề?
Hòa bình và ổn định sẽ được duy trì nếu các cường quốc hướng tới xây dựng một châu Á đa cực với các tổ chức đa phương toàn diện, cùng các cơ chế giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, sự ganh đua, cạnh tranh và thậm chí là xung đột có thể dẫn đến trật tự lưỡng cực, hoặc khả năng Bắc Kinh tìm cách thiết lập lại trật tự đơn cực mà nước này đứng vị trí trung tâm.
Thế nhưng, không có gì là chắc chắn trên vũ đài chính trị, dù trong nước hay quốc tế. Liên Xô cũ và Nhật Bản là những ví dụ để thấy rằng, việc Trung Quốc trỗi dậy chắc chắn sẽ xảy ra. Trong lịch sử, các cường quốc trỗi dậy thường hay nôn nóng và bộc lộ sức mạnh một cách bất thường. Đây là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính những nước này. Rủi ro từ những tính toán sai lầm nằm ở chỗ: quân đội Trung Quốc đánh giá quá cao sức mạnh của mình, trong khi thế giới đánh giá thấp tham vọng, sức mạnh và mục đích của Bắc Kinh.