Khuyến nghị cho một Luật Dạy nghề đổi mới

Gs. Tskh Nguyễn Ngọc Trân 26/08/2014 08:44

Ba lý do được Ban soạn thảo nêu lên để sửa đổi Luật Dạy nghề. Có nên đổi tên Luật Dạy nghề thành Luật Giáo dục nghề nghiệp? Lý do của một sự thay đổi đột ngột? Cần xác định đối tượng của công tác dạy nghề. Về xã hội hóa công tác đào tạo nghề. Hợp đồng học nghề sẽ thúc đẩy phân luồng dạy nghề, tạo mặt bằng nền rộng rãi cho sự nghiệp dạy nghề. Trọng trách và vận hội đòi hỏi đổi mới.

1. Ba lý do được Ban soạn thảo nêu lên để sửa đổi Luật Dạy nghề:

(1) Thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

(2) Bên cạnh những đóng góp quan trọng, do tình hình kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, giáo dục, đào tạo nói riêng đã có những thay đổi, nên một số quy định trong Luật Dạy nghề không còn phù hợp với thực tiễn.

(3) Yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu rộng, trước mắt vào năm 2015, Việt Nam tham gia vào Cộng đồng ASEAN.

Sửa đổi bổ sung các luật hiện hành có liên quan, xây dựng luật mới là một cách triển khai nghị quyết. Nhưng luật mới phải là cơ sở pháp lý tốt để khắc phục được các yếu kém bất cập hiện hữu. Nếu không, chu trình “nghị quyết – luật” sẽ được lặp lại mà các yếu kém, bất cập không bớt mà còn “di căn”.

Từ lúc Luật Dạy nghề (2006) được ban hành và có hiệu lực cho tới lúc có đề nghị sửa đổi, thời gian chưa đầy 8 năm.

Nhiều văn bản pháp quy dưới luật đã được ban hành nhưng vẫn còn chưa đủ để hướng dẫn thực hiện Luật do việc soạn thảo và ban hành chiếm khá nhiều thời gian .

Cho rằng “một số quy định trong Luật Dạy nghề không còn phù hợp với thực tiễn” e là phiến diện. Sự “lỗi thời” quá nhanh và sự chậm trễ khó khăn trong việc ban hành các văn bản dưới luật còn xuất phát từ một lý do khác: Luật được ban hành trong khi một số vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo. Từ đó:

Khuyến nghị 1. QH kiên quyết không đưa vào bất luận luật nào những vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo. Áp dụng ngay cho lần sửa đổi Luật Dạy nghề lần này.

2. Có nên đổi tên Luật Dạy nghề thành Luật Giáo dục nghề nghiệp?

Vấn đề cốt lõi là đổi tên Luật Dạy nghề thành Luật Giáo dục nghề nghiệp có mang lại một thay đổi về chất cho công tác đào tạo nghề, cái mà đất nước đang cần, hay không?

Trong các điều khoản của dự thảo Luật ngày 28.7.2014 hai cụm từ Dạy (Đào tạo) nghềGiáo dục nghề nghiệp hầu như hoàn toàn có thể hoán đổi vị trí cho nhau.

Trong nhiều văn kiện của Đảng các cụm từ “giáo dục chuyên nghiệp”“đào tạo nghề”, “giáo dục” “đào tạo” được sử dụng cùng một lúc. Trong tên gọi của Bộ Giáo dục và Đào tạo có cả giáo dục đào tạo.

Do vậy, khi chưa làm rõ một cách thuyết phục sự khác biệt, và lợi ích mà nó mang lại, giữa dạy nghề, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục nghề nghiệp,

Khuyến nghị 2. Vẫn giữ tên Luật Dạy nghề bởi lẽ nhiệm vụ, đối tượng đào tạo, phương thức đào tạo, tác động đến nhu cầu của xã hội của dạy nghề rất rõ như sẽ thấy sau đây.

3. Lý do của một sự thay đổi đột ngột?

Những gì còn được dự kiến cho đến ngày 15.7.2014 thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thì chưa đầy hai tuần sau, dự thảo ngày 28.7.2014 được giao về cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở Trung ương, một cơ quan mà hình hài, chức năng, nhiệm vụ chưa được xác định, và cũng không rõ có trách nhiệm như thế nào trong quản lý nhà nước đối với lực lượng lao động. Do vậy,

Khuyến nghị 3. Đề nghị Ban soạn thảo và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cung cấp lập luận và lý lẽ chứng minh sự cần thiết và tính xác đáng của sự thay đổi có phần vội vã này. Mặt khác cần đánh giá tác động pháp lý của việc thay đổi, và trình bày rõ về “cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở Trung ương”. 

4. Cần xác định đối tượng của công tác dạy nghề

Theo Niên giám Thống kê 2013, trên 59,35% dân số Việt Nam đang ở độ tuổi lao động (thành thị 55,56%, nông thôn 61,16%). Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong cả nước năm 2013 còn rất thấp, 18,2%, nhất là ở nông thôn chỉ được 11,5% (thành thị 33,9%). Trong số lao động đang có việc làm, 82,1% không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Theo tôi, đây phải là đối tượng của công tác dạy nghề.

Việt Nam đang ở thời kỳ có cơ cấu dân số vàng, nhưng với trình độ được đào tạo nghề thấp như hiện nay, nếu không nhanh chóng chấn chỉnh, e rằng cơ hội vàng sẽ qua đi một cách đáng tiếc và sẽ không quay trở lại!

Khuyến nghị 4. Xác định đúng đối tượng Luật mới đi vào những sửa đổi cần thiết, thực chất và cấp bách đối với sự nghiệp đào tạo nghề trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh ngày nay trên thế giới.

5. Về xã hội hóa công tác đào tạo nghề

Luật Giáo dục đại học đã vướng khuyết điểm là chỉ thấy ở xã hội hóa giáo dục đại học con đường thành lập trường tư thục và đang gặp không ít khó khăn do đã ban hành trong khi nghiên cứu chưa đủ độ chín một số quy định, như vấn đề “đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận” chẳng hạn.

Luật Dạy nghề cần hiểu xã hội hóa rộng hơn, cụ thể hơn và nghiên cứu thấu đáo hơn, nhất là khi đối tượng của Luật Dạy nghề rất rộng, các ngành nghề đa dạng, nhiệm vụ của Luật hết sức nặng nề như trên đây đã thấy.

Các mô hình xã hội hóa công tác dạy nghề ở nhiều nước, đã có từ hàng trăm năm và khá thành công, cần được tham khảo và nghiên cứu để quy định những mô hình khả thi phù hợp với điều kiện nước ta.

Vai trò của các doanh nghiệp là rất quan trọng, nhất là trong phương thức đào tạo xen kẽ nhà trường – doanh nghiệp.

Các Phòng Thương mại và Công nghiệp (Pháp), Phòng các ngành nghề tiêu thụ công (Đức) đóng góp rất tích cực trong công tác dạy nghề, và thông qua dạy nghề, các thiết chế này mở rộng cơ cấu ngành nghề, nâng cao chất lượng nghề tương ứng với tiến bộ công nghệ, và quảng bá cho vùng.

Những Hiệp hội đào tạo nghề cho người lớn tuổi (AFPA) và những Trung tâm đào tạo nghề và xúc tiến nông nghiệp (CFPPA), hình thành cả mạng lưới hoạt động rất hiệu quả trong công tác dạy nghề cho người lớn tuổi. Họ không quay lại yêu cầu được ngân sách nhà nước bao cấp hay bảo trợ, đúng với nghĩa xã hội hóa.

Việt Nam có thể xã hội hóa sự nghiệp dạy nghề rộng rãi, quy định rõ ràng, phù hợp với thực tế của đất nước hay không?

Khuyến nghị 5. Luật Dạy nghề cần thể chế hóa việc xã hội hóa sự nghiệp dạy nghề rộng và cụ thể có tham khảo các mô hình thành công của các nước. Nói chung mở rộng xã hội hóa đến các tổ chức, cá nhân mà lợi ích của họ và của cộng đồng gắn với việc dạy nghề.

6. Hợp đồng học nghề sẽ thúc đẩy phân luồng dạy nghề, tạo mặt bằng nền rộng rãi cho sự nghiệp dạy nghề.

Điều 23, khoản 2 trong Chương III của Bộ Luật Lao động đã quy định về hợp đồng học nghề, tập nghề. Rất tiếc thuận lợi này chậm được cụ thể hóa.

Hợp đồng học nghề cộng với phương thức đào tạo xen kẽ nhà trường – doanh nghiệp, với những quyền lợi cam kết cụ thể giữa doanh nghiệp, người học nghề và nhà trường dạy nghề sẽ thúc đẩy dạy nghề phát triển.

Ở các nước đã triển khai thành công, hợp đồng học nghề là một dạng hợp đồng lao động, là một mức lương tăng dần cho người học cho đến khi tốt nghiệp, và một quá trình đào tạo xen kẽ giữa xí nghiệp và nhà trường mà học viên nghề bắt buộc phải theo học và tốt nghiệp. Cơ chế, chính sách, cách làm và các quy định rất cụ thể. Cần tham khảo và áp dụng đúng tinh thần vào trường hợp nước ta. 

Khuyến nghị 6. Luật Dạy nghề cần thể chế hóa hợp đồng học nghề đi cùng với phương thức đào tạo xen kẽ nhà trường – doanh nghiệp, coi đây là một biện pháp thúc đẩy việc học sinh đi vào luồng đào tạo nghề.  

7.  Khuyến nghị 7. Cùng với việc đào tạo nghề, tiến tới quy định việc hành nghề, mở doanh nghiệp đều phải có văn bằng đã qua đào tạo nghề.

Việc hành nghề, mở doanh nghiệp ở nước ta hiện nay khá dễ dãi. Mặt tích cực là góp phần vào sự năng động trước mắt của nền kinh tế. Nhưng rồi những lỗ hổng về chuyên môn, về quản lý sẽ nhanh chóng lộ ra, gây ra những thiệt hại cho bản thân nhà đầu tư, cho người lao động, và cho xã hội. Không khó dẫn ra các ví dụ để minh chứng điều này.

Luật Dạy nghề nên quy định ở mức độ phù hợp, việc phải qua học nghề trước khi hành nghề; phải có thêm kinh nghiệm nghề và những hiểu biết tối thiểu về quản lý doanh nghiệp mới được thành lập doanh nghiệp.

Vấn đề không đơn giản nhưng đó là cái giá phải trả để thông qua dạy nghề, tác phong công nghiệp, ý thức về nền nếp, kỷ luật ngày càng lan rộng trong xã hội.

8. Trọng trách và vận hội đòi hỏi đổi mới

Như đã đề cập trong điểm 4, trọng trách của công tác dạy nghề là hết sức nặng nề.

Việt Nam đang ở thời kỳ có cơ cấu dân số vàng, nhưng vận hội sẽ tuột khỏi tầm tay nếu không biết nắm bắt!

Khuyến nghị 8. Trọng trách của sự nghiệp dạy nghề đối với phát triển đất nước và vận hội cơ cấu dân số vàng đòi hỏi phải tích cực xây dựng để có một Luật Dạy nghề thực sự đổi mới.

<i>Gs. Tskh</i> Nguyễn Ngọc Trân