Tiếng vọng (Phần 1)
Truyện ngắn của Yuri Naghibin (Nga)

04/08/2014 08:26

Yuri Naghibin (1920-1994). Không biết mặt cha đẻ (một nhà quý tộc mất năm 1920), nhưng nhà văn tương lai nhận được sự khích lệ vô giá từ hai người cha dượng (luật sư Mark Levental, mất năm 1952) và nhà văn Yakov Rykachiov. Bản thân nhà văn cũng phải trải qua sáu đời vợ, trong số đó, người thứ năm là nữ thi sĩ Bella Akhmadulina… Học giỏi, giấu được lý lịch dòng dõi quý tộc, Yuri Naghibin thi đỗ vào Đại học Y nhưng nhanh chóng chuyển khoa Biên kịch Đại học Nghệ thuật Điện ảnh VGIK. Viết kịch bản, đã được dựng 40 bộ phim, sở trường ở thể loại truyện ngắn, từng là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Nga (từ 1975) và Hội Nhà văn Liên Xô (từ 1981).

Minh họa của Đặng Hồng Quân
Minh họa của Đặng Hồng Quân
Dãy núi xanh, một dải bờ vắng vẻ giữa ban trưa, một cô bé hiện lên từ biển… Chuyện ấy chẳng gì thì cũng đã ba chục năm rồi.

Tôi đi tìm những viên đá trên bãi biển hoang vắng. Hôm trước có bão, những con sóng sầm sập đã trườn qua bãi tắm tới tận dãy tường trắng vôi của khu nhà an dưỡng trên bờ. Giờ thì biển đã lặng, đã rút vào giới hạn của mình, để phơi ra một doi cát màu chocolate rộng thênh phân cách làn nước trong xanh và bờ biển. Doi cát ướt át và cứng chắc đến nỗi chẳng một dấu vết gì in lại trên ấy được, nó rải đầy những viên cuội trắng như đường kính, những hòn đá xanh lục, xanh lơ, những vảy thủy tinh phẳng và tròn như những mảnh nước đá, những xác sò, xác hến, những xác rong biển mục tỏa ra mùi iốt cay cay. Tôi biết, sóng lớn thể nào cũng hất lên bờ những viên đá quý, vậy là tôi nhẫn nại lần từng bước từng bước soi khắp doi cát mới bồi và bãi cuội tươi ròng.

- Ấy, sao lại giẫm lên quần em thế? - Một giọng nói nhi nhí cất lên.

Tôi ngước mắt nhìn. Bên trên tôi, một cô bé trần truồng, gầy giơ xương, chân tay khẳng khiu đang đứng đó. Những món tóc dài và ướt bết vào mặt em, nước ướt loáng trên da thịt tái xanh gần như không bắt nắng và gờn gợn chân lông vì lạnh.

* * *

Cô bé cúi người, lôi khỏi chân tôi chiếc quần đùi sọc xanh sọc vàng, giũ cát rồi quăng lên một tảng đá, còn cô thì nằm bẹp xuống đụn cát vàng và vun lại thành từng đống bên sườn.

- Em phải mặc quần áo vào chứ… - tôi bảo.

- Để làm gì? Thế này sưởi nắng tốt hơn, - cô bé đáp.

- Thế em không thấy ngượng à?

- Mẹ em bảo, trẻ con thì không bận gì. Mẹ em không bắt em tắm cả quần, như thế dễ bị cảm lạnh. Mà chả lúc nào mẹ em chịu chơi với em…

Giữa những hòn đá đen đủi, sù sì bất chợt có một cái gì ánh lên rất đỗi dịu dàng: một hạt nhũ lệ nho nhỏ, trong ngần. Tôi lôi từ ngực áo ra chiếc hộp đựng thuốc lá sợi và góp viên nhũ lệ ấy vào bộ sưu tập của mình.

- Cho em xem tí nào.

Cô bé vén món tóc ướt cài lại, để lộ một khuôn mặt thanh tú, đầy những chấm tàn nhang, cặp mắt xanh như mắt mèo, cái mũi hênh hếch, cái miệng rộng đến tận mang tai và bắt đầu ngắm nghía những viên đá.

Trên một lớp bông mỏng là viên ngọc thạch hình oval nho nhỏ, trông hồng hồng, rồi một viên ngọc thạch nữa - nhỉnh hơn, nhưng chưa được sóng biển mài kỹ nên dị dạng và có màu hơi xỉn; một vài viên fernampix bọc trong những vân san hô; hai viên hóa thạch - một có dạng hải tinh, một có in vết con tôm; và đây, niềm tự hào trong bộ sưu tập của tôi - một viên hoàng ngọc mờ ảo thoáng chút sương khói lan trong lớp thủy tinh mờ mờ…

- Riêng hôm nay anh kiếm được bấy nhiêu à?

- Em bảo sao? Suốt từ trước đến nay đấy.

- Thế thì xoàng.

- Em thử kiếm xem nào.

- Rất nên - cô bé nhún đôi vai gầy giơ - Lê la suốt ngày dưới nắng vì những cục đá xoàng xĩnh thế này.

- Em ngốc lắm - Tôi nói - Một cô bé ngốc nghếch trần truồng.

- Chính anh mới ngốc. Thế anh có sưu tầm tem thư không?

- Có chứ – Tôi trả lời với vẻ khiêu khích.

- Và cả bao thuốc lá nữa chứ?

- Hồi bé, anh có sưu tầm. Anh còn có một bộ sưu tầm bươm bướm nữa…

Tôi cho là cô bé thích thú với chuyện đó, và không hiểu sao, tôi rất mong cô sẽ thích thú.

- Phù. Đồ gàn - Cô bé bĩu môi, để phô hai răng nanh nhọn và trắng - Thế anh có ép bẹp đầu chúng rồi dùng kim găm vào không?

- Nói chung là không, anh chỉ tẩm ête thôi.

- Dù sao thì cũng là ác… Không sao chịu được, mỗi khi thấy người ta giết chết các con vật.

- Em biết không, anh còn sưu tầm những gì nữa? – Tôi nghĩ xong nói tiếp – Anh sưu tầm xe đạp đủ các nhãn hiệu.

- Thật không?

- Nói thật đấy. Anh chạy đi khắp phố và hỏi những người đi xe đạp: “Chú ơi, xe chú là của hãng nào đấy?” Người ấy bảo: “Dux”, hoặc là “Latvella”, hoặc là “Opel”. Thế là anh sưu tầm được đủ các nhãn hiệu, chỉ còn thiếu mỗi “Enfield model Royal” mà thôi… - Tôi nói rất nhanh, sợ cô bé ngắt lời tôi bằng một tiếng cười khẩy nào đó, nhưng em chỉ nhìn tôi với vẻ nghiêm túc, chăm chú, thậm chí em còn quên cả việc rắc cát qua kẽ tay – Ngày nào anh cũng chạy ra quảng trường Lubyanskaya, có lần suýt bị tầu điện cán phải, nhưng rồi cũng tìm được một chiếc Enfield Royal. Em biết không, nhãn hiệu loại xe ấy màu tím tím, có chữ R kiểu Latin rất là to.

- Anh cũng là người chơi được đấy… - Cô bé nói và toét miệng cười… - Em tiết lộ với anh một điều bí mật nhé, em cũng sưu tầm…

- Sưu tầm cái gì?

- Tiếng vọng… Em đã sưu tầm được khá nhiều rồi. Có tiếng vọng thì ngân nga như tiếng pha lê, có tiếng vọng như tiếng kèn đồng, có tiếng vọng nghe rõ cả ba bè, và có tiếng vọng nghe như tiếng vãi đỗ, lại có…

- Em chỉ phịa thôi – Tôi bực dọc ngắt lời.

Cặp mắt mèo trong veo ấy như dán chặt vào tôi.

- Có muốn em cho xem không?

- Ừ thì xem...

- Em chỉ cho mỗi mình anh xem thôi, người khác thì đừng hòng. Nhưng người ta có cho anh đi không? Phải trèo lên tận “Yên Ngựa Lớn” cơ đấy.

- Cho đi chứ lị.

- Thế thì sáng mai anh em mình đi. Anh ở đâu?

- Ở làng Duyên Hải, xóm kiều dân Bun.

- Em thì ở đằng Tarakanikha.

- Thế thì anh đã gặp mẹ em rồi. Người cao thế này này, tóc đen, đúng không nào?

- Đúng đấy. Chỉ có em là hoàn toàn không gặp mẹ em đâu.

- Tại sao?

- Mẹ em thích bay nhảy… - Cô bé giũ giũ mớ tóc đã ráo nước và hơi hoe hoe – Thôi, ta xuống tắm lần nữa nhé, đi thôi.

Cô nhỏm dậy, cứ để mặc cho cát dính đầy người, rồi chạy ù ra biển, đôi gót chân nho nhỏ hồng hồng thấp tha thấp thoáng…

Một buổi sáng lặng gió, nắng chan hòa nhưng không nóng gắt. Biển sau cơn bão vẫn còn phả hơi mát lạnh, không cho ông mặt trời đốt nóng bầu không khí. Đến khi có một đám mây mỏng như khói thuốc bao phủ mặt trời, làm mờ nhạt đường nét của những lối đi, những bức tường trắng, những mái nhà khum khum và những ánh chói chang của miền nam, không gian bỗng sa sầm như trước một cơn trở trời, cùng lúc ấy, luồng gió lạnh từ biển thổi vào mỗi lúc một mạnh.

Con đường mòn dẫn lên “Yên Ngựa Lớn” thoạt tiên uốn lượn ngoằn ngoèo giữa những quả gò thấp, sau đó ngóc thẳng lên cao, xuyên qua rừng hồ đào thơm sực nức. Cắt ngang nó là một rãnh khá nông, đá lổn nhổn, đấy là lòng của một trong những con suối từ sườn núi đổ xuống, sau mỗi trận mưa lại gầm réo làm huyên náo cả một vùng chung quanh, nhưng chúng lại cạn trước cả khi những giọt mưa đọng trên lá hồ đào kịp khô.

Đến lúc đã đi được một phần đường kha khá, tôi mới quyết định hỏi tên cô bạn nhỏ của mình.

- Này –Tôi hỏi với theo cô bé mặc quần đùi sọc xanh sọc vàng thấp thoáng như một cánh bướm trong rừng hồ đào –Tên em là gì thế?

- Em biết nói với anh thế nào đây nhỉ - Cô bé nói với vẻ tự lự - Em có một cái tên thật là ngớ ngẩn, Viktrina, mà mọi người vẫn thường gọi em là Vitka.

- Gọi là Vitka cũng được chứ.

- Phù, gàn – Cô bé lại thân mật phô hai răng nanh nhọn sắc.

- Sao lại gàn? Vitka là một loài đậu hoang.

- Người ta còn gọi là đậu chuột nữa kia. Em không ưa lũ chuột tí nào.

- Thôi, Vitka vẫn là Vitka, còn anh là Serioza. Chúng mình còn phải đi xa nữa không?

- Anh mệt mỏi rồi à? Đi qua một trạm gác rừng là nom rõ “Yên Ngựa Lớn” thôi mà…

Nhưng chúng tôi còn phải rẽ ngoằn ngoèo trong một khu rừng hồ đào sực mùi mật ong ấy một hồi lâu. Cuối cùng lối mòn nhập vào một con đường rải đá, lấp lánh những hạt cát nhỏ trắng tinh như bột đường kính và dẫn chúng tôi đến một thềm đá rộng. Ở đây, trong đám cây hồ đào rậm rạp, có một trạm gác rừng đắp bằng vỏ hến vỏ sò.

Chúng tôi vừa đặt chân vào căn nhà xinh xẻo ấy thì tiếng chó sủa đã làm vỡ bầu không khí yên tĩnh. Hai con chó bông màu trắng xỉn vừa khua chuỗi xích dài vừa chạy bổ đến chúng tôi, chúng chồm lên dựng đứng, nhưng bị xích cổ làm nghẹt thở, chúng đành lè ra chiếc lưỡi đỏ hồng gầm gừ một lát rồi nằm bệt xuống đất.

- Anh đừng sợ, chúng nó không chạm tới chúng ta được đâu. – Vitka điềm tĩnh nói.

Chúng tôi lại đi vòng vèo theo một lối mòn hẹp qua rừng hồ đào. Rừng chỗ này không còn rậm rạp như ở dưới kia: nhiều khóm cây đã khô xác, ở nhiều cây khác, lá đã bị những con bọ đen nhẫy chén hết và biến thành tơ cả rồi.

Tôi thấm mệt và đâm bực với Vitka, cô bé ấy, nom kìa, vẫn bước đi bằng đôi chân khẳng khiu như hai cây gậy, mà đầu gối lại hơi chạm vào nhau như vậy. Nhưng tôi bỗng thấy trước mắt sáng ra và bắt gặp một sườn núi mọc toàn thứ cỏ thấp ngọn, xa nữa là một vách đá xám dựng đứng.

- Ngón Tay Quỷ đấy - Vừa đi, Vitka vừa nói.

Chúng tôi càng đến gần, vách đá xám càng dựng đứng lên cao, có cảm tưởng nó mọc vượt lên để ngăn chúng tôi khỏi đến nơi. Chúng tôi vừa đặt chân vào cái bóng mát lạnh và tối sầm ấy, vách đá liền nở to một cách dễ sợ. Nó không còn là “Ngón Tay Quỷ” nữa, mà đã là một “Ngọn Tháp Quỷ”, mờ ám, bí hiểm và bất khả xâm phạm.

Như muốn giải đáp những khúc mắc trong tôi, Vitka bảo:

- Anh biết không, bao nhiêu người muốn leo lên đỉnh, nhưng chẳng ai lên nổi. Người thì ngã tan xác, người thì gãy chân tay. Vậy mà có một người Pháp đã leo được đến nơi.

- Lên bằng cách nào vậy?

- Lúc lên thì được… Nhưng lúc xuống thì chịu, thế là ở trên ấy, ông ta hóa điên, về sau bị chết đói… Tuy nhiên ông ta vẫn cứ là người giỏi – Cô bé nói thêm với vẻ tư lự.

Chúng tôi đã tiến đến sát “Ngón Tay Quỷ”, và Vitka hạ giọng bảo tôi:

- Đây này…- Cô bé lùi lại mấy bước và gọi khẽ - Xê-ri-ô-gia....”

Tôi đứng lặng, và đâu đó trên cao, nghe văng vẳng một tiếng gọi thều thào chua xót: “Xê-ri-ô-gia”.

- Quỷ quái thật... –Tôi buột ra một thứ âm thanh nghèn nghẹn.

“Quỷ quái thật...” - Có tiếng lướt qua tai.

“Quái thật...” - Tiếng dội lên từ biển.

“Quái thật...” - Tiếng vọng về từ trên cao.

Trong mỗi kẻ nhại giọng vô hình đó đều có một tính cách gan lì và khêu gợi: cái giọng kề tai thì nhỏ to ngọt nhạt; cái giọng phía biển thì vừa nghịch ngợm, vừa lãnh đạm; còn nấp trên cao lại là một kẻ giả vờ mau nước mắt và khó dỗ dành.

- Kìa anh?... Thử hô một câu đi nào... - Vitka nói.

Thế là lại vọng vào tai một thứ âm thanh khe khẽ, ngắt rời câu nói của cô bé:

“Kìa anh” – thì gióng giả, “thử hô một” – thì tí tửng, và “câu xem nào” thì như thể nói qua nước mắt.

Phải khó khăn lắm, tôi mới dồn được sức lấy hơi và hô to:

- Núi xanh.

Và tôi nghe thấy một hồi âm ba bè…

Tôi hô, tôi nói, tôi còn thì thào nhiều câu linh tinh nữa. Và tiếng vọng ấy thính nhạy vô cùng. Có những tiếng tôi nói khẽ đến nỗi chính mình nghe cũng chưa rõ, vậy mà chúng vẫn cứ tìm được hồi âm. Tôi đã chẳng còn thấy sợ nữa, nhưng lần nào cũng vậy, mỗi lúc kẻ vô hình đó thì thầm vào tai tôi, tôi lại lạnh ớn cả gáy, và nghe cái giọng nức nở, tim tôi thót lại.

- Xin chào – Vitka nói và rời “Ngón Tay Quỷ” đi tiếp.

Tôi đuổi theo cô, nhưng cái kẻ nhại tiếng kia đã đuổi kịp tôi, thì thầm những lời từ biệt một cách nhỏ to đáng ghét, và kẻ ở khơi xa thì cười rưng rức, còn cái giọng trên cao thì rền rĩ: “Xin chào...”

Chúng tôi đi về phía biển, chỉ lát sau đã tới một mỏm đá chênh vênh trên miệng vực. Cả bên phải lẫn bên trái đều là những ngọn núi vươn cao, mà bên dưới chúng tôi là vực nước sâu không đáy đang hắt lên chang chói hút hết tầm nhìn. Nếu như “Ngón Tay Quỷ” mà đâm xuống đất, nó sẽ làm thành một cái lỗ to tướng và khủng khiếp như vậy. Từ đáy vịnh nhô lên những mỏm đá nhọn sắc và trơn nhẫy, tựa như răng nanh của một con quái vật khổng lồ, làn nước biển sẫm như pha mực xô dồn dập vào đó. Một con chim gì không rõ cứ giang rộng đôi cánh bất động như cánh chim chết, chậm chạp lượn vài vòng rồi rơi tõm vào nơi không đáy.

Hình như ở đây có một cái gì còn chưa kết thúc, những sức lực ghê gớm từng lôi lên từ ruột đất một ngón tay đá khổng lồ, từng khoét đá núi làm thành một cái giếng quái đản, từng cắm vào đáy giếng những mũi đá lởm chởm để rồi buộc biển cả phải đưa cái lưỡi mềm mại của mình liếm quanh đó, những sức mạnh ấy còn chưa lấy lại được thế cân bằng. Toàn bộ cái khối đá khổng lồ ở chung quanh và bên dưới đều chông chênh, đều ở trong một trạng thái dồn nén bên trong, có xu hướng muốn trở lật… Dĩ nhiên là ngay lúc đó tôi chưa biết gọi tên cái cảm giác hãi hùng đã ngự trị tôi ở đỉnh “Yên Ngựa Lớn”…

Vitka nằm sấp ngay bên mép vực và gọi tôi tới. Tôi đến nằm duỗi người trên một tảng đá phẳng phiu, rắn đanh và ấm áp, vậy là cái sức hút lạnh tanh của cõi không đáy liền biến mất, nhìn xuống dưới thấy dễ như không. Vitka thò đầu xuống miệng vực và hô:

- Ơ hơ hơ.

Một tích tắc im ắng, sau đó là một âm thanh dội rền như tiếng kèn đồng:

“Ơ - hơ - hơ - u - u.”

Trong âm thanh đó thấy không có gì đáng sợ, mặc dù nghe rất vang và rất rền. Chừng như ở đáy vực có một người khổng lồ tốt bụng không muốn làm điều gì xấu cho chúng tôi.

Vitka hỏi:

- Biết tên cô gái đầu tiên trên đời h-a-y-y ch-ư-a?

Vậy là người khổng lồ đó nghĩ một lát rồi trả lời:

“Ê - va.”

- Anh biết không - Vitka vừa nhìn xuống bên dưới vừa nói. Chưa một ai từ đỉnh “Yên Ngựa Lớn” xuống được tới mặt biển đâu nhé. Có một bác xuống đến lưng chừng thì chịu…

- Rồi chết đói chứ? – Tôi thử đùa.

- Không, người ta buông thừng xuống cho bác ta rồi lôi lên… Theo em thì có thể xuống được đấy.

- Ta thử xuống xem nào?

- Ừ thì thử –Vitka hưởng ứng một cách sốt sắng và vô tư, và tôi hiểu là em nói nghiêm chỉnh.

- Thôi để lần khác – Tôi đánh bài lùi một cách gượng gạo.

- Vậy thì ta đi tiếp… Khỏe nhé –Vitka nói chõ vào vực sâu rồi nhỏm dậy.

“Khỏe nhé” - người khổng lồ gầm to.

Tôi vẫn còn muốn nói chuyện với người khổng lồ đó, nhưng Vitka đã lôi đi tiếp.

Tiếng vọng mới - theo như lời Vitka, “ngân nga như tiếng pha lê” - làm tổ trong một khe núi hẹp như vết dao khía. Tiếng vọng này có giọng kim, giá thử có nói bằng giọng trầm thì nó cũng chuốt mỏng đến chói tai. Và lại còn một điều nghịch lý nữa: đáp rồi, tiếng vọng vẫn chưa chịu im cho, lại còn chin chít như chuột kêu trong những khe ngách nào ấy nữa.

Chúng tôi không dừng lâu trước những kẽ ngách mà lại đi tiếp. Lúc này chúng tôi leo qua một sườn núi dựng đứng, có chỗ um tùm cỏ sắc và cây gai, có chỗ lại trơ trụi, trơn bóng. Cuối cùng chúng tôi đến một thềm đá ngổn ngang những khối lớn. Mỗi khối đá đều gợi lên một cái gì đó: tàu biển, xe tăng, con bò đực, đầu lâu của một tên giặc mặc áo giáp mà Ruslan đã chém đứt, khẩu đại bác canh bờ biển đã bị gãy nòng, con lạc đà, mõm con sư tử đang gầm, có khi lại giống một phần thân thể của gã khổng lồ bị cắt rời một cách cẩu thả: cái mũi khoằm, cái tai như vỏ hến, cái cằm có râu, cái nắm tay to tướng mãi không chịu xòe ra, một bàn chân trần, một cái trán với những mớ tóc xõa…

Tất cả những con vật, hoặc những bộ phận của chúng đã hóa đá, tất cả những đồ vật mặc áo đá ấy bị vứt lỏng chỏng, chỉ cần một tiếng hô như thể một quả bóng bật ra là từng mảnh, từng mảnh âm thanh sẽ dội lại với một độ nhanh chớp mắt và một bội số đáng kể. Đây là nơi trú ngụ của tiếng vọng “như tiếng vãi đỗ”…

Song kỳ lạ nhất là cái tiếng vọng mà Vitka chưa nói đến. Chúng tôi không phải đi, mà là bò lên với nó, tay bám vào những gờ đá, những bụi tầm gửi, những khóm cây khô. Những hòn đá dưới chân dưới tay chúng tôi rời ra, kéo theo những hòn đá lớn hơn, đằng sau chúng tôi sinh ra những tiếng ầm ầm không ngớt. Đến khi nhìn lại, tôi phải ngạc nhiên vì sự nhỏ bé của cái cao điểm đá từng làm chúng tôi chóng mặt lúc ở miệng vực.

Đăng Bẩy dịch
(Số sau đăng hết)