Hơn 60 năm đọc Tô Hoài

Phong Lê 17/07/2014 08:42

95 năm tuổi. 75 năm viết. Đó là Tô Hoài. Một kỷ lục viết rất hiếm, thậm chí chưa có ai trong giới người viết thế kỷ XX đạt được ở Việt Nam.

Trước 1945, chỉ trong khoảng thời gian trên dưới ba mươi năm, đời sống văn chương là sự tiếp nối của nhiều thế hệ viết, nhiều kiểu người viết khác nhau; kể từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến Tản Đà, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách...; để sau Hoàng Ngọc Phách mà đến Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn rực rỡ đến thế cũng chỉ ở ngôi trong dăm năm, rồi nhường chỗ cho các kiện tướng của trào lưu hiện thực: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng... Lại dăm năm nữa, sau lừng lẫy của những tên tuổi trên mà xuất hiện Nam Cao, Tô Hoài... Tô Hoài, đứng bên Nam Cao với một diện mạo riêng, đủ sức làm một cuộc chạy tiếp sức cho đến 1945... Nếu ngừng viết ở 1945, Tô Hoài cũng đã là một cái tên đáng nhớ bên cạnh Nam Cao. Nhưng rồi, cũng vẫn Tô Hoài, thật sự dẻo dai trong bảy mươi năm tiếp theo tính từ sau 1945. Cuộc đi này mới thật là dài, dài gấp hơn mười lần trước 1945. Nó không còn là cuộc chạy thi, mà là cuộc đi đường trường, có lúc gấp gáp, có lúc nhẩn nha qua rất nhiều chặng, cùng với năm, sáu thế hệ người viết, và với thế giới nhân vật khó nói hết sự đông đúc của nó trong không gian và thời gian...


*      *

Người viết bài này vốn thuộc lớp người đọc bị Tô Hoài làm cho mê mẩn ở tuổi nhi đồng bởi một chú Dế mèn thích phiêu lưu, và một cái sân nhộn nhịp chó, gà, vịt, ngan, ngỗng... có lẫn vào một gương mặt người là anh Cu Lặc. Dế mèn... đọc đi rồi đọc lại. Ham không kém trinh thám, kiếm hiệp. Nhưng kiếm hiệp, trinh thám là thứ phải thay đổi luôn, rồi quên đi, chứ không phải thứ để đọng lại. Còn Dế mèn thì cứ nguyên vẹn ở đó, nơi bộ nhớ, cho đến suốt đời.


Ở tuổi trưởng thành, do yêu cầu nghề nghiệp, tôi buộc phải đọc nghiêm túc về ông, cùng nhiều người khác. Đọc để phân tích, đánh giá theo một khuôn mẫu nào đó mà mình tin là đúng và có ích. Từ Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ cho đến Nhớ Mai Châu, kể có đến mấy chục cuốn về nhiều chủ đề gắn với sự đổi đời cách mạng của các dân tộc vùng cao; của vùng Bưởi - ngoại ô, quê ông; của lớp “người ven thành”, hoặc “những ngõ phố, người đường phố”; của “quê người” rồi “quê nhà”; của một lớp chiến sỹ cách mạng tập trung ở vùng cao như Kim Đồng, Vừ A Dính, Hoàng Văn Thụ; của một quá khứ từ gần đến xa, và rất xa, như Mười năm, rồi Đảo hoang, Nhà Chử... Ấn tượng về sức viết của Tô Hoài thật mênh mông, đồ sộ. Thấy ông liên tục giữ nhiều chức vụ trong Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn nghệ Hà Nội; đi lại nhiều nơi; có rất nhiều chuyến công du nước ngoài; lại còn nhiều năm tham gia công tác khu phố ở cương vị chủ tịch phường... không hiểu ông lấy đâu ra thời gian để viết? Không hiểu ông có như Bandắc mong cả hai tay cùng cầm bút, hai cái đầu cùng nghĩ, hai lọ mực để cùng lúc mà chấm, và đạt chỉ tiêu hai ngàn trang mỗi năm? Bandắc chỉ thọ hơn 50 năm. Còn Tô Hoài đạt ngưỡng 95. Với hơn 160 đầu sách, hẳn số trang Tô Hoài đạt được quả không nhỏ, không quá kém thua tác giả của trên 90 cuốn thuộc bộ Tấn trò đời. Chỉ nghĩ riêng về mặt số lượng, khi so với các danh nhân thế giới - những người sinh sống trong nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, quả có lúc ta hơi tự ti, do cách hiểu ta là người viết trong một nền sản xuất nhỏ, chỉ quen canh tác trên ba sào ruộng. Nhưng đến cuối thế kỷ XX, qua Tô Hoài và một vài cây bút trẻ khác, có người còn rất trẻ, thì mới thấy, khi việc viết đã thành nghề, một cách tự nguyện hoặc bắt buộc, khi con người đã lão luyện trong nghề, hoặc dám đam mê chết sống với nghề, thì nhà văn ở nơi đâu cũng vậy.

Điều có thể khẳng định ở Tô Hoài - đó là càng về cuối đời ông viết càng hay. Hình như ở cái quãng giữa rất đồ sộ của ông, những năm 1960 và 1970, cũng như nhiều người, sự tìm kiếm của ông nhằm vào một mục tiêu chung, một tiếng nói chung mà xem ra ông cũng không quyết liệt lắm trong ý định nhô lên làm người lĩnh xướng, hoặc trong đội ngũ những người lĩnh xướng. Ông chỉ muốn làm một nhân chứng trung thực của đời, một người ghi chép cần mẫn chuyện đời, một “thư ký của thời đại”, như cách nói quen thuộc một thời ở ta. Nội việc đó, chỉ bản thân việc đó đã là giá trị. Giá trị đó ai muốn hiểu thế nào thì tùy. Còn tôi thì tôi nhớ có lần ông đã viết về cái đã có lần ông nói với tôi, đại ý: nhiệm vụ của thế hệ chúng ta là hãy phấn đấu ghi chép cho thật cần mẫn, cho thật nhiều, cho thật đủ những gì mình biết, mình trải; còn việc vươn lên các đỉnh cao cũng cần xem xem, vì văn chương Quốc ngữ của ta tuổi đời còn rất ngắn so với nhiều nền văn xuôi trên thế giới.

Sự bền bỉ không chút nản mỏi, khả năng giữ cho mình có được cái mới, và vượt lên mình của chính bản thân Tô Hoài thật đáng nể trọng. Ngoài sáu mươi, rồi ngoài bảy mươi, tám mươi, vẫn thế! Vẫn chẳng sút đi trong sức viết. Phần tôi, đọc Tô Hoài, tôi luôn luôn thấy có cái để chờ đợi. Sau một danh mục không ít truyện và tiểu thuyết nổi danh một thời, đọc đi đọc lại với cảm giác quen quen có nhớ có quên, tôi lại được đọc Những gương mặt, rồi Cát bụi chân ai, tiếp đến là Chiều chiều với trọn vẹn sự hứng thú. Không lâu sau đó là Cái áo tế với những chuyện đời nửa đầu thế kỷ XX mà cứ như hun hút xuyên sâu vào quá khứ; bên những chuyện đời nhãn tiền - hôm nay - đang diễn ra thật là ngổn ngang, bất ngờ đến khó hiểu, nhưng dẫu muốn hoặc không, con người vẫn phải gắng mà hiểu, để từ chối nó hoặc chấp nhận nó... Tất cả đều là các cuốn sách thuộc trong số không nhiều cuốn của một vài tác giả hiện đại mà tôi luôn có nhu cầu đọc đi đọc lại. Đọc để mở rộng cái kho chuyện đời, không lúc nào hết thú vị và bất ngờ, có cái mình lơ đãng bỏ sót, có cái lúc nhớ lúc quên, và nhiều cái lạ lẫm chưa từng biết, nay nhờ Tô Hoài mà mình được khai tâm... Đọc để mà hưởng cái thú chiêm ngưỡng một ý tưởng, một triết lý sống, hoặc để nghe một giọng điệu riêng, một cách nói riêng. Ở đây là Tô Hoài, một Tô Hoài không lẫn với ai. Một Tô Hoài hết mình. Hóm hỉnh và thông minh. Nhẹ nhõm mà có sức nặng. Cứ như đùa mà thật nghiêm chỉnh. Nhũn nhặn, khiêm nhường mà thật dũng cảm, chẳng biết sợ là gì. Chẳng phải chỉ tuổi tác mới cho ông sự dũng cảm ấy. Biết bao người có tuổi mà vẫn rất quen sợ, quen nhìn trước ngó sau. Còn Tô Hoài, ông mở rộng tầm mắt cho tất cả sự thật ùa vào, kể cả những sự thật tưởng chỉ có thể “đào sâu chôn chặt”. Cố nhiên không là sự thật vô vị, sự thật “tự nhiên chủ nghĩa”, như có lần ông đã bị chê và phê. Sự thật đó Tô Hoài cần trang trải như một món nợ đời, nợ lòng; ông không đành và chúng ta càng không muốn “sống để dạ chết mang theo”. Sự thật đó cần cho chúng ta, càng cần cho hậu thế!

Tôi yêu mến và kính trọng nhiều nhà văn hiện đại, nhưng ở một số người, niềm yêu mến và sự kính trọng đó có lúc đứt nối, có lúc nhuốm chút phân vân. Nhưng riêng Tô Hoài, ông thuộc số ít người mà sự yêu mến kính trọng nhìn chung là liền mạch hơn sáu mươi năm qua; kể từ khi tôi còn là đứa trẻ lên mười.

Hơn sáu mươi năm đọc Tô Hoài, tôi thấy lúc nào, ở lứa tuổi nào, cũng có ông ở bên mình. Tôi thành ra bị cuốn theo ông. Thành ra một người đọc ở quá nhiều tâm thế và vị thế. Trong cảm nhận của tôi, ở tuổi ngoài tám mươi, rồi ngót chín mươi, Tô Hoài vẫn cứ trẻ. Một sức trẻ kéo dài từ Dế mèn... qua hàng trăm tên truyện, với mênh mông những khoảng sống gắn nối và làm liền mạch hai phía - đầu và cuối thế kỷ XX, mà ông vừa là chứng nhân hiếm hoi của biết bao sự kiện lớn, nhỏ - gần như không sự kiện nào bị bỏ sót; lại vừa là người có cách kể về nó, theo một lối riêng thật đặc sắc, mang thương hiệu sáng giá: Tô Hoài.

Phong Lê